Loại vụ việc: Ly hôn đơn phương một bên ở Đài Loan.
Cấp xét xử: Sơ thẩm.
Tòa án giải quyết: Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
Công ty Luật TNHH Luật Hùng Bách tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng Lê Thị H – là Nguyên đơn trong vụ việc.
Sau 2 năm kết hôn, nhận thấy cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng phát sinh nhiều bất đồng, mâu thuẫn nên chị H và anh C đã ly thân. Thời gian sau anh C đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan khiến hai bên ngày càng xa cách, không tìm được tiếng nói chung, mâu thuẫn trở nên trầm trọng. Vì vậy, chị H làm thủ tục đề nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết cho chị được ly hôn với anh C theo quy định.
Ngày 31 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số ../2021/TLST – HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số …/2022/QĐXX-ST ngày 01 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị H – sinh năm 1989. Có mặt
Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Thanh Hóa.
2. Bị đơn: Anh Lê Xuân C – sinh năm 1985. Vắng mặt
Địa chỉ: Thôn E, xã F, huyện G, tỉnh Thanh Hóa.
Nơi cư trú hiện nay: Đài Loan.
Về hôn nhân của anh C và chị H như đơn khởi kiện của chị H là đúng thực tế. Anh C và chị H kết hôn năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ. Sau khi kết hôn hai vợ chồng có về ở cùng gia đình chúng tôi một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, sau đó chị H bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống. Năm 2016 anh C đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Thỉnh thoảng anh C có liên lạc về cho gia đình nhưng chúng tôi không biết địa chỉ cụ thể của anh C ở Đài Loan. Anh C chị H không có con chung, không có tài sản chung.
Gia đình chúng tôi và anh C biết chị H làm thủ tục ly hôn và ý kiến của anh C là đồng ý ly hôn với chị H. Do anh C ở Đài Loan không về được Việt Nam nên tôi sẽ thay mặt anh C nhận các thủ tục tổ tụng của Tòa án và tôi sẽ có trách nhiệm thông báo lại cho anh C.
Tại phiên tòa: Chị Lê Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện ly hôn anh Lê Xuân C.
Về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, trong quá trình thụ lý, giải quyết đã thực hiện đúng theo quy định của bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc vắng mặt của chị Lê Thị H nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ Khoản 2 Điều 227 BLTTDS đề nghị HĐXX vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.
Đề nghị HĐXX căn cứ điều 51,56 và 57 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 37, khoản 4 Điều 147, Điều 207 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự; Xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Lê Thị H, xử cho chị H được ly hôn với anh Lê Xuân C.
Về con chung: Không có.
Về tài sản chung: Không có.
Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Trong vụ án này có đương sự là anh Lê Xuân C hiện đang sinh sống và làm việc tại Đài Loan. Tại công văn số 20741/QLXNC-P5 ngày 16/9/2021 của Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh bộ Công an cung cấp cho Tòa án: Anh Lê Xuân C sinh ngày 09/10/1985 đã xuất cảnh gần nhất là ngày 23/7/2018, hiện nay chưa có thông tin nhập cảnh về nước. Tại biên bản lấy lời khai của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa ngày 15/02/2022 đối với ông Lê Xuân T (Bố đẻ anh Lê Xuân C) đều xác nhận anh C đi Đài Loan năm 2014 đến nay chưa về. Vì vậy có căn cứ xác định hiện nay anh C đang ở nước ngoài. Nên theo quy định tại điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền của TAND tỉnh Thanh Hóa.
Chị Lê Thị H có đơn yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải nên vụ án thuộc trường hợp không hòa giải được theo điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự, nên tòa án đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung;
Chị H chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng của anh C ở Việt Nam nhưng không cung cấp được địa chỉ của anh C ở nước ngoài. Vì vậy Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa tiến hành tống đạt các quyết định tố tụng cho ông Lê Xuân T (Bố anh Lê Xuân C) và niêm yết các quyết định tố tụng theo quy định.
Tại phiên tòa vắng mặt của chị Lê Thị H nhưng chị đã có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ Khoản 2 Điều 227 BLTTDS HĐXX vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn là phù hợp.
Về Hôn nhân: Chị Lê Thị H và anh Lê Xuân C tự nguyện kết hôn với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa năm 2010. Sau khi kết hôn hai vợ chồng sinh sống hạnh phúc với nhau đến năm 2012, do bất đồng quan điểm sống và chị chưa sinh con nên hai vợ chồng ly thân từ 2012 đến nay. Năm 2016 Anh C đi Xuất khẩu lao động tại Đài Loan đến nay không về nước, hiện nay chị biết anh C đang ở Đài Loan, nhưng địa chỉ cụ thể chị không biết. Do hai vợ chồng không có con chung, ly thân đã lâu năm, mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn nên chị để nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Xuân C.
Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh C thấy rằng: tình cảm hai vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ vào điều 51; điều 56 Luật Hôn nhân gia đình, chấp nhận cho chị H được ly hôn anh C
Về con chung: Hai vợ chồng không có con chung.
Về tài sản và công nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.
Chị Lê Thị H là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự chị phải chịu án phí sơ thẩm là 300.000đ. Chị đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm tại biên lai thu số 0014260 ngày 30/9/2021 tại Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Thanh Hóa.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ vào: Điều 51; Điều 56; Điều 57 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; khoản 1 Điều, Khoản 4 Điều 147; Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 266; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị H.
2. Về án phí: Chị Lê Thị H phải chịu án phí sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000đ, chị đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm tại biên lai thu số 0014260 ngày 30/9/2021 tại Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Thanh Hóa.
3. Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Lê Xuân C được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.
Thông tin bản án tranh chấp Hợp đồng thi công Loại vụ việc: Tranh chấp…
Thông tin bản án tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Loại…
Thông tin bản án tội chống người thi hành công vụ Loại vụ việc: Tội…
Thông tin bản án tranh chấp Hợp đồng tặng cho tài sản Loại vụ việc:…
Thông tin bản án hôn đơn phương tranh chấp tài sản chung, cấp dưỡng Loại…
Thông tin quyết định thuận tình ly hôn vắng mặt cả 2 bên ở Canada…