Loại vụ việc: Thuận tình ly hôn vắng mặt hai bên ở nước ngoài.
Cấp xét xử: Sơ thẩm.
Tòa án giải quyết: Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.
Công ty Luật TNHH Luật Hùng Bách tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng Nguyễn Thị H và Vũ Đình N trong vụ việc dân sự.
Sau 1 năm kết hôn, nhận thấy cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng phát sinh nhiều bất đồng, mâu thuẫn. Mặc dù vậy nhưng chị H và anh N vẫn cùng nhau cố gắng hàn gắn. Sau đó, chị H và anh N cùng nhau đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan nhưng mâu thuẫn vẫn tiếp tục. Hai bên ngày càng xa cách, không tìm được tiếng nói chung, mâu thuẫn trở nên trầm trọng và đã sống ly thân. Vì vậy, chị H và anh N làm thủ tục đề nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết thuận tình ly hôn hai bên ở Đài Loan.
Ngày 11 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương mở phiên họp sơ thẩm công khai giải quyết việc dân sự thụ lý số …/2023/TB-TA ngày 11 tháng 04 năm 2023 về việc “Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận về nuôi con” theo Quyết định mở phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự số …/2023/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2023, gồm những người tham gia tố tụng sau đây:
1. Chị Nguyễn Thị H – sinh năm 1996. Vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn L, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương.
Nơi cư trú hiện nay: Đài Loan.
2. Anh Vũ Đình N – sinh năm 1992. Vắng mặt
Địa chỉ: Địa chỉ: Thôn L, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương.
Nơi cư trú hiện nay: Đài Loan.
3. Người được chị H, anh N ủy quyền về việc giao, nhận văn bản của Tòa án:
Anh Phạm Tiến H, địa chỉ: phường h, quận g, thành phố Hà Nội (theo giấy ủy quyền ngày 30/12/2022).
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Vũ Đình D – sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị K – sinh năm 1969. Nơi cư trú: Thôn L, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương.
Theo đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn; Bản tự khai; Giấy ủy quyền; Đơn đề nghị giải quyết vắng mặt của chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Đình N cùng các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện:
Chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Đình N được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương ngày 14/01/2014. Vợ chồng chung sống đến đầu năm 2015 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do quan điểm, cách nuôi dạy con cái và lối sống bất đồng, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi chửi nhau làm cho cuộc sống trở nên căng thẳng.
Tháng 6/2017, anh chị cùng sang Đài Loan làm ăn nhưng tiếp tục nảy sinh mâu thuẫn. Mâu thuẫn căng thẳng từ cuối năm 2018, vợ chồng không có tiếng nói chung và đã sống ly thân mỗi người một nơi, không ai quan tâm đến ai. Anh chị đã tìm cách để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Nay chị H và anh N cùng xác định tình cảm vợ chồng không còn và thống nhất đề nghị Tòa án công nhận thuận tình ly hôn.
Vợ chồng có 01 con chung là Vũ Ngọc A, sinh ngày 21/10/2014, hiện con đang ở với bố mẹ anh N là ông Vũ Đình D và bà Nguyễn Thị K. Chị H và anh N cùng thống nhất giao con chung cho anh N chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên (tròn 18 tuổi). Anh N tự nguyện không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Trong thời gian anh N không có mặt tại Việt Nam anh ủy quyền cho ông Vũ Đình D và bà Nguyễn Thị K thay anh chăm sóc con chung cho đến khi anh về nước, chị H nhất trí giao con cho ông D, bà K nuôi dưỡng trong thời gian anh Nam không có mặt tại Việt Nam.
Chị H, anh N cùng xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Chị H tự nguyện chịu toàn bộ lệ phí giải quyết việc dân sự theo quy định của pháp luật.
Chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Đình N hiện đang sinh sống tại Đài Loan nên anh, chị ủy quyền cho anh Phạm Tiến H thay anh, chị giao, nhận các tài liệu tại Tòa án. Anh H nhất trí nhận ủy quyền của chị H, anh N. Sau khi nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án, anh H đã thông báo cho chị H, anh N biết; chị H, anh N vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.
Do điều kiện đi làm ăn xa nên chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Đình N không trực tiếp tham gia tố tụng tại Tòa án được anh, chị đều có đơn và có quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
Ông Vũ Đình D và bà Nguyễn Thị K có quan điểm: Đồng ý chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Vũ Ngọc A cho đến khi anh N về nước, ông bà không yêu cầu anh, chị phải cấp dưỡng tiền nuôi cháu Vũ Ngọc A và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
Con chung của chị H, anh N là cháu Vũ Ngọc A có nguyện vọng được ở với anh N, ông D và bà K.
Đồng ý chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Vũ Ngọc A cho đến khi anh N về nước, ông bà không yêu cầu anh, chị phải cấp dưỡng tiền nuôi cháu Vũ Ngọc A và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
Con chung của chị H, anh N là cháu Vũ Ngọc A có nguyện vọng được ở với anh N, ông D và bà K.
Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký và các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ việc: Căn cứ Điều 55, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 149 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Đề nghị Tòa án công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Đình N. Giao con chung Vũ Ngọc A, sinh ngày 21/10/2014 cho anh N chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên. Chấp nhận sự tự nguyện của anh N không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Tạm giao cháu Vũ Ngọc A cho ông D, bà K tiếp tục nuôi dưỡng trong thời gian anh N không có mặt ở Việt Nam. Chị H tự nguyện chịu cả lệ phí giải quyết việc dân sự sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ việc dân sự, quan điểm của các đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tại phiên họp, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương nhận định:
Chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Đình N có đơn đề nghị Tòa án công nhận thuận tình ly hôn. Chị H, anh N hiện đang lao động tại Đài Loan, nơi cư trú trước khi xuất cảnh: Thôn L, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương. Do vậy, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương. Quá trình giải quyết chị H, anh N, ông D và bà K đều có đơn và có quan điểm đề nghị giải quyết vắng mặt.
Chị H và anh N không về Việt Nam tham gia tố tụng nhưng đã gửi đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự, bản tự khai, đơn xin vắng mặt và giấy ủy quyền đến Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương. Các tài liệu này đã được Văn phòng Kinh tế Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc chứng thực. Do vậy, có đủ cơ sở khẳng định nội dung trong các văn bản mà chị H, anh N gửi về đúng là ý chí, nguyện vọng của anh, chị. Do các đương sự đều đề nghị xin được vắng mặt nên căn cứ khoản 2 Điều 367 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự vắng mặt các đương sự.
Chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Đình N được tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương ngày 14/01/2014 là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống đến năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không thống nhất được quan điểm sống và cách nuôi dạy con cái. Năm 2017 anh chị cùng sang lao động tại Đài Loan, nhưng mâu thuẫn vợ chồng không được cải thiện.
Cuối năm 2018 mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng và không có biện pháp tháo gỡ, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị H và anh N đều xác định tình cảm vợ chồng không còn nên thống nhất đề nghị Tòa án công nhận thuận tình ly hôn. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H và anh N.
Chị H và anh N có 01 con chung là Vũ Ngọc A, sinh ngày 21/10/2014. Anh, chị thỏa thuận thống nhất giao con chung cho anh N trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con thành niên (tròn 18 tuổi). Anh N tự nguyện không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Con chung Vũ Ngọc A có nguyện vọng được ở với anh N, ông D và bà K. Ông D và bà K nhất trí nuôi dưỡng cháu Vũ Ngọc A trong thời gian anh N không có mặt tại Việt Nam.
Xét thấy, thỏa thuận của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với thực tế, không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Tạm giao cháu Vũ Ngọc A cho ông D, bà K chăm sóc cho đến khi anh N về nước.
Chị H, anh N cùng xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Chấp nhận sự tự nguyện của chị H tự nguyện chịu cả lệ phí sơ thẩm giải quyết việc dân sự theo quy định của pháp luật.
Áp dụng Điều 55, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 29, điểm b khoản 1 Điều 37, Điều 149, Điều 367 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 3 Điều 37 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Đình N.
Công nhận sự thỏa thuận của chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Đình N, giao con chung Vũ Ngọc A, sinh ngày 21/10/2014 cho anh N trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con thành niên (tròn 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của anh N không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Trong thời gian anh N không có mặt ở Việt Nam, tạm giao cháu Vũ Ngọc A cho ông Vũ Đình D và bà Nguyễn Thị K chăm sóc, nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Không xem xét giải quyết.
Chị Nguyễn Thị H tự nguyện chịu cả 300.000₫ (ba trăm nghìn đồng) lệ phí sơ thẩm giải quyết việc dân sự, được đối trừ số tiền tạm ứng lệ phí 300.000₫ theo biên lai thu số AA/2021/0004448 ngày 11/4/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương (do anh Phạm Tiến H nộp thay). Chị H đã nộp đủ lệ phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.
Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Thông tin bản án tranh chấp Hợp đồng thi công Loại vụ việc: Tranh chấp…
Thông tin bản án tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Loại…
Thông tin bản án tội chống người thi hành công vụ Loại vụ việc: Tội…
Thông tin bản án tranh chấp Hợp đồng tặng cho tài sản Loại vụ việc:…
Thông tin bản án hôn đơn phương tranh chấp tài sản chung, cấp dưỡng Loại…
Thông tin quyết định thuận tình ly hôn vắng mặt cả 2 bên ở Canada…