Thông tin bản án tranh chấp Hợp đồng thi công
Loại vụ việc: Tranh chấp Hợp đồng thi công.
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Công ty Luật TNHH Luật Hùng Bách bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty TNHH Thương mại và Đầu tư X – là nguyên đơn trong vụ án.
Khái quát bản án tranh chấp Hợp đồng thi công
Công ty X và công ty Y ký kết Hợp đồng Thương Mại về việc thiết kế, thi công, cung cấp thiết bị hồ bơi do Dự án Homstay T tại thành phố Huế. Trong đó, các công việc mà công ty Y cần phải làm đó là: lập bản vẽ thiết kế, thi công và cung cấp thiết bị cho 02 hồ bơi của dự án trên. Sau khi ký kết hợp đồng, công ty X đã tiến hành tạm ứng một khoản tiền cho công ty Y. Qua quá trình kiểm tra, nghiệm thu các bên xác định việc sử dụng vật liệu đầu vào, thi công, lắp đặt của công ty Y không đáp ứng tiêu chuẩn. Công ty Y muốn chấm dứt hợp đồng.
Công ty X khởi kiện ra Tòa án với yêu cầu:
1. Công ty Y hoàn trả số tiền chênh lệch giữa khối lượng công việc đã hoàn thành so với số tiền công ty Y đã tạm ứng và yêu cầu thanh toán lãi chậm trả;
2. Công ty Y cung cấp đầy đủ giấy tờ, chứng từ liên quan để hoàn thành việc chấm dứt hợp đồng;
3. Tuyên chấm dứt Hợp đồng thương mại đã ký kết với công ty Y
Tòa án đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của công ty X.
Chi tiết bản án tranh chấp Hợp đồng thi công
Ngày 21 tháng 9 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu xét xử sơ thẩm công khai vụ án KDTM thụ lý số 37/2024/TLST-KDTM ngày 16 tháng 8 năm 2024 về việc tranh chấp “Hợp đồng thi công” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2024/QĐXXST-KDTM ngày 04/9/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2024/QĐST-KDTM ngày 14/9/2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
Công ty TNHH Thương mại và Đầu tư X; Địa chỉ: phố K, phường N, quận Ba Đình, Tp Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông A – Chức vụ: Giám đốc;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn P, sinh năm: 1999; Ông Phạm Đình Th, sinh năm: 2001. Địa chỉ: 48 Mai Dị, phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu, Tp Đà Nẵng; Bà Lê Thị Minh T – Chức vụ: Phó giám đốc. Địa chỉ: phường T, Nam Từ Liêm, Hà Nội (theo giấy ủy quyền lập ngày 16/9/2024). Ông Th, bà T có mặt, ông P xin vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông HTT, Luật sư Công luật TNHH Luật Hùng Bách. Địa chỉ: Số 48 Mai Dị, phường Hòa Cường Bắc, quân Hải Châu Tp Đà Nẵng. có mặt.
Bị đơn:
Công ty Y. Địa chỉ: phường H, Quận Liên Chiểu, Tp Đà Nẵng.
Người đại diện theo pháp luật: Ông L – Chức vụ: Giám đốc;
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Bùi Thị Đ – sinh năm: 1988. Địa chỉ: phường H, quận Cẩm Lệ, Tp Đà Nẵng (theo giấy ủy quyền ngày 28/8/2024). Có mặt.
Nội dung bản án tranh chấp Hợp đồng thi công
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày
Ngày 10/8/2023, Công ty TNHH Thương mại và Đầu tư X (gọi tắc: Công ty X) và Công ty TNHH Y (gọi tắc: Công ty Y) có ký kết Hợp đồng thương mại số 41/2023/HĐTM-SGP về việc thiết kế, thi công và cung cấp thiết bị hồ bơi cho Dự án Homstay T tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Theo Hợp đồng, công ty Y phụ trách việc lập bản vẽ thiết kế, thi công 02 hồ bơi theo yêu cầu và cung cấp các thiết bị cho 02 hồ bơi của Dự án theo thiết kế được duyệt. Tổng giá trị hợp đồng là 993.211.549 đồng (đã bao gồm chi phí vận chuyển, lắp đặt và thuế VAT 8%). Sau khi ký kết Hợp đồng, công ty X đã thanh toán số tiền tạm ứng đợt 01 là 347.624.042 đồng (35% giá trị Hợp đồng) để công ty Y tiến hành thực hiện dự án.
Trong quá trình thực hiện công việc, kiểm tra, đánh giá nghiệm thu dự án, các bên xác định công ty Y đã sử dụng vật liệu đầu vào không đảm bảo chất lượng, thi công lắp đặt, bản vẽ quy trình công nghệ không đảm bảo tiêu chuẩn. Vì vậy, công ty Y có mong muốn chấm dứt Hợp đồng đã ký kết.
Trên cơ sở thực tế khối lượng công việc hoàn thành, công ty X đã đề nghị công ty Y phải hoàn trả số tiền chênh lệch giữa khối lượng công việc hoàn thành so với số tiền tạm ứng đợt 01 cùng với số tiền lãi chậm trả. Đồng thời, yêu cầu Y cung cấp đầy đủ giấy tờ, chứng từ liên quan để hoàn thành việc chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, các bên phát sinh tranh chấp do phía công ty Y không thống nhất giá trị khối lượng công việc hoàn thành và không hợp tác giải quyết theo thỏa thuận
Chấm dứt Hợp đồng thương mại số 41/2023/HĐTM-SGP ngày 10/8/2023.
– Buộc Công ty TNHH Y hoàn trả tiền chêch lệch giữa giá trị khối lượng hoàn thành và tiền Công ty TNHH Thương mại và Đầu tư X đã thanh toán đợt 1 là: 173.069.607₫.
– Buộc Công ty TNHH Y thanh toán tiền chậm trả, tính từ ngày 15/12/2023 đến ngày 15/5/2024: 0,03%/ngày x 150 ngày x 173.069.607₫ = 7.789.347₫.
– Buộc Công ty TNHH Y cung cấp hóa đơn, chứng từ, biên bản để hoàn thành hồ sơ pháp lý.
Ngày 19/8/2024, Công ty X khởi kiện bổ sung lần 1:
Tuyên chấm dứt Hợp đồng thương mại số 41/2023/HĐTM-SGP ngày 10/8/2023.
– Buộc Công ty TNHH Y hoàn trả tiền chêch lệch giữa giá trị khối lượng hoàn thành và tiền Công ty TNHH Thương mại và Đầu tư X đã thanh toán đợt 1 là: 205.012.443₫ (tăng 31.942.836d).
– Buộc Công ty TNHH Y thanh toán tiền chậm trả, tính từ ngày 15/12/2023 đến ngày 15/8/2024: 0,03%/ngày x 240 ngày x 205.012.443₫ = 14.760.895₫.
– Buộc Công ty TNHH Y cung cấp hóa đơn, chứng từ, biên bản để hoàn thành hồ sơ pháp lý.
Ngày 26/8/2024, Công ty X khởi kiện bổ sung lần 2:
Tuyên chấm dứt Hợp đồng thương mại số 41/2023/HĐTM-SGP ngày 10/8/2023.
– Buộc Công ty TNHH Y hoàn trả tiền chêch lệch giữa giá trị khối lượng hoàn thành và tiền Công ty TNHH Thương mại và Đầu tư X đã thanh toán đợt 1 là: 236.624.042₫, (tăng thêm 31.611.599₫).
– Ngoài số tiền chêch lệch giữa giá trị khối lượng hoàn thành và tiền Công ty TNHH Thương mại và Đầu tư X đã thanh toán đợt 1 là: 236.624.042₫,
– Buộc Công ty TNHH Y thanh toán tiền chậm trả, tính từ ngày 15/12/2023 đến ngày 15/8/2024: 0,03%/ngày x 240 ngày x 236.624.042₫ = 17.036.931 đồng.
– Buộc Công ty TNHH Y cung cấp hóa đơn, chứng từ, biên bản để hoàn thành hồ sơ pháp lý.
Tại phiên tòa, ngày 21/9/2024, Công ty X bổ sung lần 3:
– Buộc Công ty TNHH Y phải bồi thường chi phí phát sinh gồm: Chi phí thuê luật sư và chi phí khác với số tiền 100.000.000₫. Tổng cộng: Tiền gốc: 230.847.807đ + Tiền bồi thường: 100.000.000₫ + Tiền lãi 17.036.931 đồng.
Luật sư HTT trình bày (tóm tắt): Căn cứ Hợp đồng thương mại số 41/2023/HĐTM-SGP ngày 10/8/2023 về việc thiết kế, thi công và cung cấp thiết bị hồ bơi cho Dự án Homstay T tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, thì Công ty Y đã vi phạm nghiêm trọng các điều khoản đã cam kết, cụ thể Công ty Y đã sử dụng vật liệu đầu vào không đảm bảo chất lượng, thi công lắp đặt, bản vẽ quy trình công nghệ không đảm bảo tiêu chuẩn. Vì vậy, đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty X đối với Công ty Y.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày
Công ty TNHH Y đã ký hợp đồng với Công ty TNHH Thương mại và Đầu tư X Hợp đồng thương mại số 41/2023/HĐTM-SGP về việc thiết kế, thi công và cung cấp thiết bị hồ bơi cho Dự án Homstay T tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, theo đó Công ty Y thực hiện việc lập bản vẽ thiết kế, thi công 02 hồ bơi theo yêu cầu và cung cấp các thiết bị cho 02 hồ bơi của Dự án theo thiết kế được duyệt. Tổng giá trị hợp đồng là 993.211.549 đồng (đã bao gồm chi phí vận chuyển, lắp đặt và thuế VAT 8%). Sau khi ký kết Hợp đồng, Công ty X đã thanh toán số tiền tạm ứng đợt 01 là 347.624.042 đồng (35% giá trị Hợp đồng) để Công ty Y tiến hành thực hiện dự án. Ngoài ra, Công ty Y còn nhận thi công tường rào cho Công ty X (phát sinh, không có hợp đồng, chỉ thỏa thuận với nhau để thi công).
Quá trình thi công hai bên đã thống nhất dừng hợp tác và tại biên bản làm việc ngày 20/9/2023 hai bên đã thống nhất khối lượng và công việc mà Công ty Y là hoàn thành. Tại Công văn số 15.12/2023 ngày 15/12/2023 của Công ty X về việc đề nghị chúng tôi thanh toán 173.069.607đ, đến ngày 21.02.2024 Công ty Y đã xuất hóa đơn trên cơ sở đề nghị thanh toán của Công ty X .
Nay, Công ty X khởi kiện số tiền 173.069.607 đồng và thanh toán tiền chậm trả, tính từ ngày 15/12/2023 đến ngày 15/5/2024: 0,03%/ngày x 150 ngày x 173.069.607₫ = 7.789.347đ, thì Công ty Y đồng ý thanh toán trong thời hạn 03 tháng. Tuy nhiên, Công ty X đã thay đổi số tiền tăng lên không đúng theo biên bản làm việc ngày 20/9/2023 và Thông báo số 15.12/2023 ngày 15/12/2023. Do vậy, chúng tôi không đồng ý với số tiền 236.624.042 đồng mà Công ty X đã yêu cầu tăng lên 63.554.435₫ so với yêu cầu khởi kiện ban đầu. Về số tiền Công ty X yêu cầu chúng tôi phải bồi thường chi phí phát sinh gồm: Chi phí thuê luật sư và chi phí khác với số tiền 100.000.000đ, thì công ty chúng tôi không đồng ý.
Bản án tranh chấp Hợp đồng thi công
Nhận định của Tòa án
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về tố tụng:
Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp “Hợp đồng thi công” giữa Công ty X và Công ty Y thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, theo quy định tại khoản 5 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35, và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Về nội dung:
2.1. Về yêu cầu hoàn trả số tiền chênh lệch
Theo Hợp đồng thương mại số 41/2023/HĐTM-SGP ngày 10/8/2023, giữa Công ty X và Công ty Y về việc thiết kế, thi công và cung cấp thiết bị hồ bơi cho Dự án Homstay T tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, thì Công ty Y thực hiện việc lập bản vẽ thiết kế, thi công 02 hồ bơi theo yêu cầu và cung cấp các thiết bị cho 02 hồ bơi của Dự án theo thiết kế được duyệt. Tổng giá trị hợp đồng là 993.211.549 đồng (đã bao gồm chi phí vận chuyển, lắp đặt và thuế VAT 8%). Sau khi ký kết Hợp đồng, Công ty X đã thanh toán số tiền tạm ứng đợt 01 là 347.624.042 đồng (35% giá trị Hợp đồng) để Công ty Y tiến hành thực hiện dự án. Ngoài ra, Công ty Y còn nhận thi công tường rào cho Công ty X , phần tường rào là hạn mục phát sinh, không có hợp đồng, chỉ thỏa thuận với nhau để thi công. Quá trình thi công hai bên đã thống nhất dừng hợp tác và đã thống nhất tại biên bản thỏa thuận ngày 20/9/2023 và tại Công văn số 15.12/2023 ngày 15/12/2023 thì Công ty X thông báo, đề nghị Công ty Y phải hoàn lại là 173.069.607 đồng.
Tại đơn khởi kiện ngày 03/7/2024, Công ty X yêu cầu Công ty Y phải hoàn trả tiền chêch lệch giữa giá trị khối lượng hoàn thành và tiền Công ty X đã thanh toán đợt 1 là: 173.069.607₫ và tiền chậm trả, tính từ ngày 15/12/2023 đến ngày 15/5/2024: 0,03%/ngày x 150 ngày x 173.069.607₫ = 7.789.347₫. Nội dung này, Công ty Y thống nhất và cam kết thanh toán trong 03 tháng. Tuy nhiên sau đó, Công ty X liên tục thay đổi số tiền gốc từ 173.069.607₫ đến ngày 19/8/2024 là 205.012.443₫ (tăng 31.942.836đ); ngày 26/8/2024 là 236.624.042₫, (tăng thêm 31.611.599₫); tại phiên tòa ngày 21/9/2024 giảm còn 230.847.807₫ (tăng 57.778.200₫ so với Công văn đề nghị thanh toán số 15.12/2023 ngày 15/12/2023). Lý giải vấn đề trên, Công ty X cho rằng, Công văn số 15.12/2023 ngày 15/12/2023 là đề nghị Công ty Y phải hoàn lại số tiền 173.069.607 đồng là tiền nhận của bể bơi, sau đó mới tính tiền phát sinh tường rào; đồng thời đơn giá mà Công ty Y đã tính để làm tường rào là cao hơn so với các đơn vị khác, và sau khi Công ty Y bàn giao và rời công trình Homestay T, thì Công ty X mới phát hiện có một số vị trí Công ty Y chưa hoàn thành việc tô trác tường và đơn giá của đơn vị thi công khác thấp hơn so với đơn giá Công ty Y yêu cầu thanh toán. Xét thấy, Công ty X cho rằng, Công văn số 15.12/2023 ngày 15/12/2023 chỉ tính tiền hoàn lại của dự án bể bơi số tiền 173.069.607 đồng là không chính xác, vì tại Công văn số 15.12/2023 ngày 15/12/2023 Công ty X đã xác định giá trị khối lượng công việc tường rào mà Y đã hoàn thành có trị giá là 74.887.200đ; đồng thời Công ty X cho rằng đơn giá mà Công ty Y yêu cầu thanh toán là cao hơn so với các đơn vị thi công khác tại địa phương (Huế) và cung cấp các chứng từ về đơn giá thi công của đơn vị khác để so sánh với giá trị khối lượng công việc của Y từ đó hạ giá thành của Công ty Y là không có căn cứ. Vì tại phiên tòa, cả 02 bên đều thừa nhận, ngoài việc thiết kế thi công bể bơi, Công ty Y còn nhận thi công làm tường rào tại dự án Homstay T, việc thỏa thuận về đơn giá là do các bên thương lượng và đã có biên bản chốt khối lượng, chất lượng từ đó xác định giá trị, khối lượng công việc mà Y đã hoàn thành, nên không thể lấy thông báo giá của đơn vị khác để sử dụng cho Công ty Y khi chưa có sự thống nhất của cả hai bên. Hơn nữa, việc Công ty X lựa chọn khởi kiện Công ty Y ra Tòa án, nhưng không chuẩn bị tài liệu chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình mà liên tục thay đổi số tiền tăng dần không phù hợp và không bổ sung tài liệu chứng cứ về sự thay đổi trên, nên không có căn cứ chấp nhận. Từ phân tích trên, HĐXX có căn cứ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty X đối với Công ty Y về số tiền 173.069.607₫ theo Công văn số 15.12/2023 ngày 15/12/2023; không có căn cứ chấp nhận số tiền tăng thêm là 57.778.200₫ của Công ty X đối với Công ty Y .
2.2. Về yêu cầu tính tiền lãi:
Do Công ty Y chậm thanh toán, nên Công ty X yêu cầu thanh toán tiền chậm trả, tiền lãi 0,03%/ngày trên số tiền gốc 230.847.807₫; Thời gian tính lãi từ ngày 15/12/2023 đến ngày xét xử. Nội dung này Công ty Y đồng ý mức lãi 0,03%/ngày nhưng chỉ đồng ý trả lãi trên số tiền gốc 173.069.607đ. Xét thấy, Công ty Y đồng ý mức lãi 0,03%/ngày phù hợp với các quy định tại Điều 357, 468 BLDS nên HĐXX chấp nhận, riêng số tiền được tính lãi thì như đã phân tích tại mục [2.1] phần 2 của bản án, nên chỉ chấp nhận tính lãi trên số tiền gốc là 173.069.607₫. Như vậy, số tiền lãi tạm tính từ ngày 15/12/2023 đến ngày 15/5/2024: 0,03%/ngày x 150 ngày x 173.069.607₫ = 7.789.347₫ và tiếp tục tính lãi từ ngày 16/5/2024, theo mức lãi suất các bên thống nhất cho đến khi Công ty Y thanh toán xong nợ cho Công ty X .
2.3. Về số tiền yêu cầu bồi thường phát sinh tại phiên tòa:
Tại phiên tòa, đại diện Công ty X yêu cầu Tòa án buộc Công ty Y phải bồi thường chi phí phát sinh gồm: Chi phí thuê luật sư và chi phí khác với số tiền 100.000.000đ. Xét thấy, quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Công ty X đã khởi kiện bổ sung 02 lần và đã được Tòa án chấp nhận cho thụ lý bổ sung theo quy định của BLTTDS; Tuy nhiên, tại phiên tòa Công ty X lại bổ sung bồi thường số tiền 100.000.000₫ nhưng không cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu này là chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ chứng minh của mình đối với bị đơn. Hơn nữa, đây là nội dung bổ sung đã vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu, nên HĐXX căn cứ Điều 244 BLTTDS không chấp nhận yêu cầu này của Công ty X đối với Công ty Y.
Đối với việc buộc Công ty Y cung cấp hóa đơn, chứng từ, hồ sơ pháp lý, thì ngày 21.02.2024 Công ty Y đã xuất hóa đơn trên cơ sở đề nghị thanh toán của Công ty X đối với số tiền 173.069.607d.
3. Về án phí KDTM-ST: Căn cứ Điều 147 BLTTDS.
Do chấp nhận một phần yêu cầu của Công ty X, nên phần không được chấp nhận Công ty X phải chịu tiền án phí KDTM-ST theo quy định là: 157.778.200 x 5% = 7.888.9104, được trừ vào tiền tạm ứng án phí Công ty X đã nộp là 4.521474₫ theo biên lai thu số 0000984 ngày 16/8/2024 và số tiền tạm ứng án phí Công ty X đã nộp là 1.558.800d, theo biên lai thu số 0000995 ngày 28/8/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu. Số tiền còn lại Công ty X phải nộp là: 1.808.6364.
Đối với phần được chấp nhận thì bị đơn Công ty Y phải chịu án phí là (173.069.607d+ 7.789.347d) x 5% = 9.042.947d.
Vì các lẽ trên
Quyết định
Áp dụng: Khoản 5 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35, và điểm a khoản 1 Điều 39, 147, 235, 244 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều 116, 117, 357, 468, 469 Bộ luật dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện Công ty TNHH Thương mại và Đầu tư X đối với Công ty TNHH Y về việc “Tranh chấp hợp đồng thi công”.
Xử:
Chấm dứt Hợp đồng thương mại số 41/2023/HĐTM-SGP ngày 10/8/2023 giữa Công ty TNHH Y và Công ty TNHH Thương mại và Đầu tư X.
Buộc Công ty TNHH Y phải thanh toán cho Công ty TNHH Thương mại và Đầu tư X số tiền gốc: 173.069.607đ, và tiền lãi tính từ ngày 15/12/2023 đến ngày 15/5/2024: 0,03%/ngày x 150 ngày x 173.069.607₫ = 7.789.347₫ và tiếp tục tính lãi từ ngày 16/5/2024, theo mức lãi suất 0,03%/ngày các bên đã thống nhất cho đến khi Công ty Y thanh toán xong nợ cho Công ty X .
Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Thương mại và Đầu tư X đối với công ty TNHH Y tổng số tiền 157.778.200đ. Trong đó: Tiền gốc tăng: 57.778.200đ; Tiền bồi thường: 100.000.000₫. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
Án phí KDTM sơ thẩm: Buộc Công ty TNHH Thương mại và Đầu tư X phải chịu số tiền là 7.888.910đ, được trừ vào tiền tạm ứng án phí Công ty X đã nộp là 4.521474₫ theo biên lai thu số 0000984 ngày 16/8/2024 và số tiền tạm ứng án phí Công ty X đã nộp là 1.558.800đ, theo biên lai thu số 0000995 ngày 28/8/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu. Số tiền còn lại Công ty X phải nộp là: 1.808.636₫. Buộc công ty TNHH Y phải chịu số tiền là 9.042.947 đồng.
Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm nguyên đơn, bị đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Liên hệ Luật sư – Luật Hùng Bách.
Trường hợp các bên phát sinh tranh về Hợp đồng như: Hợp đồng hợp tác, Hợp đồng thi công,… hoặc các tranh chấp khác liên quan đến lĩnh vực Kinh doanh – Thương mại và cần Luật sư tham gia tư vấn, hỗ trợ giải quyết tranh chấp vui lòng liên hệ với chúng tôi theo các phương thức sau:
- Làm việc trực tiếp với Luật sư ở các văn phòng của chúng tôi tại: TP. Hà Nội; TP. Hồ Chí Minh; Đà Nẵng; Khánh Hòa; Hà Tĩnh;…..
- Tư vấn qua điện thoại: 0979.890.858 (Zalo)
- Email: luathungbach@gmail.com.
- Facebook: Công ty Luật Hùng Bách.