Bản án hình sự tội Sử dụng mạng máy tính, viễn thông, hoặc điện tử để chiếm đoạt tài sản.


Thông tin bản án hình sự tội Sử dụng mạng máy tính, viễn thông, hoặc điện tử để chiếm đoạt tài sản.

Loại vụ việc: Vụ án hình sự với tội danh “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

Cấp xét xử: Sơ thẩm.

Công ty Luật TNHH Luật Hùng Bách tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng Bùi Tuấn A – bị cáo trong vụ án.

Liên hệ Luật sư hình sự 0971115 989 (có zalo) để được hỗ trợ.

Khái quát bản án hình sự tội Sử dụng mạng máy tính, viễn thông, hoặc điện tử để chiếm đoạt tài sản.

Tháng 12/2022, chị Đặng Thị H bị lừa tham gia đầu tư vào trang web giả mạo Ngân hàng Shinhan Việt Nam và bị chiếm đoạt hơn 20 tỷ đồng. Quá trình điều tra xác định bị cáo Trần Tiến T đã nhiều lần cung cấp tài khoản ngân hàng do người khác đứng tên cho nhóm đối tượng lừa đảo, hỗ trợ việc nhận và tẩu tán tiền chiếm đoạt của các bị hại, với tổng số tiền liên quan hơn 3,6 tỷ đồng. Bị cáo Bùi Tuấn A, sau khi phát hiện tiền được chuyển vào tài khoản mang tên mình, đã thay đổi mật khẩu, chiếm đoạt gần 600 triệu đồng để sử dụng cá nhân.

Viện kiểm sát truy tố Trần Tiến T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS; Bùi Tuấn A về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 290 BLHS. Các bị cáo bị đề nghị mức án lần lượt từ 12–14 năm tù và 8–9 năm tù, đồng thời phải bồi thường thiệt hại cho các bị hại.

Liên hệ Luật sư hình sự 0971115 989 (có zalo) để được hỗ trợ.

Chi tiết bản án hình sự tội Sử dụng mạng máy tính, viễn thông, hoặc điện tử để chiếm đoạt tài sản.

Ngày 12 tháng 6 năm 2025, tại Hội trường xét xử số 1 – Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 19/2025/TLST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2025 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sosơ thẩm số: 29/2025/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2025 đối với các bị cáo:

  1. Bị cáo: TRẦN TIẾN T; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 02 tháng 01 năm 1996 tại huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá (học vấn): 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tồn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn D (đã chết) và bà Trần Thị Hồng C; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị T và 03 con, con nhỏ sinh năm 2016, con lớn sinh năm 2024; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tốt. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/4/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai. Có mặt.
  1. Bị cáo: BÙI TUẤN A; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 21 tháng 09 năm 1990 tại huyện C, tỉnh Hòa Bình; Nơi cư trú: Xóm Đ, xã T, huyện C, tỉnh Hòa Bình; Nghể nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn H và bà Bùi Thị P; Bị cáo có vợ là Mai Thị P và 01 con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tốt. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/4/2024, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai. Có mặt.
  1. Người bào chữa cho bị cáo Trần Tiến T: Ông Trịnh Huỳnh Q – Luật sư Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn Luật Hùng Bách. Địa chỉ: Phố Đ, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Có mặt.
  1. Người bào chữa cho bị cáo Bùi Tuấn A: Ông Lê Trường S – Luật sư Công ty Luật hợp danh Thủy Vỹ thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Lào Cai. Địa chỉ: Phố Đ, phường Cốc Lếu, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Có mặt.
  1. Bị hại:

– Chị Đặng Thị H; Địa chỉ: Đường P, phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Có mặt.

– Chị Nguyễn Thị Hồng H; Địa chỉ: Phố Đ, phường Cổ Nhuế 02, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

– Chị Thân Mỹ T; Địa chỉ: Ấp T, xã Phú Thanh, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Văng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

– Chị Nguyễn Thị A; Địa chỉ: Thị trấn T, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt

– Ông Nguyễn Văn S; Địa chỉ: Phố Đ, phường Ba Hàng, thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt

– Chị Nguyễn Thế C; Địa chỉ: Đường H, phường 06, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

– Chị Vương Thị Thúy Đ; Địa chỉ: Thôn B, xã Ngọc Liên, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt

  1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

– Chị Huỳnh Kim Q; Địa chỉ: phường X, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Văng mặt.

– Chị Khoàng Thị H; Địa chỉ: BảnX, xã Lay Nưa, thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên. Vắng mặt.

– Anh Nguyễn Hoài H; Địa chỉ: Xóm P, xã Hợp Thành, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt.

– Bà Trần Thị Hồng C; Địa chỉ: Đường P, phường Phú Chánh, thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

– Ông Bùi Văn H: Địa chỉ: Xóm Đ, xã Thu Phong, huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

– Chị Trần Thị G; Địa chỉ: Thôn L, xã Tân Dân, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

– Anh Đỗ Văn T; Địa chỉ: đường L, phường Phú Hòa, quận Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

– Chị Nguyễn Thị L; Địa chỉ: đường L, phường Phú Hòa, quận Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

– Anh Trần Thanh Đ; Địa chỉ: xã B, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Vắng mặt.

– Chị Nguyễn Thị Q; Địa chỉ: xã X, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

– Chị Nguyễn Thị Bích T; Địa chỉ: phường X, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Vắng mặt.

– Chị Nguyễn Thị Lan A; Địa chỉ: đường L, phường Phúc Lợi, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

– Anh Tạ Quang N; Địa chỉ: xã C, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Vắng mặt.

– Anh A D; Địa chỉ: xã Đ, huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum. Vắng mặt.

– Anh Trần Gia C; Địa chỉ: xã T, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

  1. Người làm chứng:

– Chị Nguyễn Thị Kiều O; Địa chỉ: đường T, phường Lê Lợi, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

– Anh Nguyễn Văn Nh; Địa chỉ: phường T, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

– Anh Nguyễn Văn H; Địa chỉ: Phố K, thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

Liên hệ Luật sư hình sự 0971115 989 (có zalo) để được hỗ trợ.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

  1. Hành vi phạm tội của Trần Tiến T:

Khoảng tháng 12/2022, chị Đặng Thị H được một người (chưa xác định được nhân thân, lý lịch) sử dụng tài khoản mạng xã hội Facebook, Zalo có tên Trần Hoàng N kết bạn, gửi cho hình ảnh căn cước công dân giả mạo đề chị H tin tưởng rồi dụ dỗ đăng nhập đường link http://www.csgvyj.com (là trang web giả mạo sàn thương mại điện tử Ngân hàng Shinhan Việt Nam) để đầu tư. Quá trình đầu tư chị H đã bị các đối tượng đưa ra nhiều lý do để dụ dỗ chị H chuyển tiền vào nhiều tài khoản khác nhau và chiếm đoạt tổng số tiền 20.136.541.014 đồng. Kết quả điều tra, truy xét đổi với các tài khoản ngân hàng do Trần Tiến T cung cấp cụ thể như sau:

Khoảng cuối năm 2018, đầu năm 2019, khi Trần Tiến T đang ở tại Malaysia có quen biết và làm việc theo hình thức lừa đảo trực tuyển cho Nguyễn Thị Phương L (sinh ngày 20/6/1994, trú tại thôn P, xã Gia Phố, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, hiện đang sinh sống tại Malaysia) nhưng làm được khoảng 20 ngày, do không lừa đảo được ai nên T nghi làm. Tại Malaysia T có quen biết với Tạ Quang N, Bùi Tuấn A, A D và cuối năm 2021 cả bốn người về Việt Nam. Đến khoảng tháng 3/2022, Phương L liên lạc với T nhờ mở tài khoản ngân hàng của người quen biết và sẽ trả tiền công để chuyển cho Phương L sử dụng làm game, đồng thời cho T vào tài khoản nhóm WeChat của Phương L đế tiện khi cần tài khoản ngân hàng ở Việt Nam sẽ liên hệ thuê T làm. Khoảng cuối tháng 8/2022, Phương L nhắn qua nhóm WeChat bảo với T là cần một vài tài khoản ngân hàng đề giao dịch, T nói lại nội dung này với Tạ Quang N và A D. Từ ngày 18/8/2022 đến ngày 26/9/2022, T và N đã đưa A D đi mở được 9 tài khoản ngân hàng đứng tên của A D để chuyển cho Phương L, trong đó có số tài khoản số 19038939038017 mở tại Ngân hàng Techcombank. Ngày 30/11/2022, T cùng Tạ Quang N nhập cảnh vào Malaysia để lao động kiếm tiền, đến giữa tháng 12/2022, thì Trần Gia C liên hệ với T nhờ bán 02 tài khoản ngân hàng gồm: 01 tài khoản số 00000173565 mở tại Ngân hàng TPBank của Trần Gia C và 01 tài khoản số 1033563719 mở tại Ngân hàng Vietcombank mang tên Trần Thị G (mẹ của C). Sau đó T thông báo cho nhóm của Phương L nói có tài khoản của người thân nên dùng cần thận và nhắn thông tin 02 tài khoản ngân hàng trên cho nhóm Phương L.

Ngày 20/12/2022, tài khoản mở tại Ngân hàng TPBank của Chính bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương phong tỏa số tiền 1.472.244.107 đồng do có liên quan đến hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong đó có 500 triệu đồng từ tài khoản Vietinbank số 103000225669 của chị H chuyển đến và 970 triệu là dòng tiền nằm trong số tiền 5.609.999.990 đồng chị H đã chuyển vào tài khoản Ngân hàng MB mang tên Nguyễn Thị Bích T nêu trên, sau đó tài khoản này chuyển vào tài khoản của C. Toàn bộ số tiền này đã được thu hồi trả cho chị H. Khi tài khoản của C bị phong tỏa, Phương L đã yêu cầu T phải giải quyết số tiền này nếu không sẽ không về được Việt Nam. Lúc này T đã biết tài khoản ngân hàng của C bị phong tỏa. Ngày 22/12/2022, Phương L đã liên hệ yêu cầu T mở gấp cho một vài tài khoản ngân hàng để bù vào tài khoản của C bị phong tỏa. T liên hệ với N bảo N liên lạc với nhiều người để nhờ mở tài khoản. N liên hệ bảo Bùi Tuấn A đi mở tài khoản ngân hàng sẽ trả tiền công 1,5 triệu đồng/01 tài khoản nên Tuấn Ađồng ý. Nam chuyển khoản cho Tuấn A 600.000 đồng để lấy chỉ phí đi mở tài khoản. Tuấn A đi mở được 04 tài khoản ngân hàng sau đó chuyên N thông tin 03 tài khoản gồm: Ngân hàng Tiên Phong (TPBank); Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinBank); Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VietcomBank), N chuyển lại cho T rồi T chuyển cho nhóm Phương L. Trong số các tài khoản chuyển cho Phương L thì có tài khoản mở tại Ngân hàng TPBank, Tuấn A đăng ký dịch vụ InternetBanking, thông báo biến động số dư qua tin nhắn bằng số điện thoại 0835412797 chính chủ của Tuấn A đạng sử dụng. Ngày 23/12/2022, N, T định về Việt Nam nhưng không đủ tiền thanh toán vé máy nên chỉ có N về trước để lo tiền cho T về Việt Nam sau.

Sau khi nhận được các tài khoản của Tuấn A, ngày 24/12/2022 nhóm Phương L đã thực hiện ngay các giao dịch chuyển một phần trong tổng số tiền 2.571.541.000 đồng mà chị H đã chuyển vào tài khoản mở tại ngân hàng TechcomBank mang tên A D đến các tài khoản này và một số tài khoản khác để chiếm đoạt, cụ thể: đã chuyển 1.037.039.000 đồng vào tài khoản mở tại ngân hàng TPBank và chuyển số tiền 500.318.000 đồng vào tài khoản mở tại ngân hàng Vietinbank của Bùi Tuấn A.

Cũng trong ngày 24/12/2022, bẩy bị hại khác cũng bị các đối tượng dụ dỗ đầu tư trên trang thương mại điện tử giả mạo Ngân hàng Shinhan Việt Nam đề lừa đảo chiếm đoạt tiền giống với phương thức, thủ đoạn chiếm đoạt tiền của bị hại Đặng Thị H rồi chuyển tiền đến tài khoản số 0795829102 mở tại ngân hàng VPBank của A D, gồm các bị hại: Nguyễn Thế C chuyển 15 triệu đồng; Nguyễn Văn H chuyển 02 triệu đồng; Nguyễn Thị A chuyển 25 triệu đồng; Nguyễn Thị Hồng H chuyển 20.120.000 đồng; Nguyễn Văn S chuyển 500 triệu đồng; Thân Mỹ T chuyển 50 triệu đồng; Lê Thị Bích N chuyển 2,2 triệu đồng. Sau đó các đối tượng đã chuyển 375.670.000 đồng từ tài khoản ngân hàng VPBank của A D đến tài khoản số 00001198214 mở tại ngân hàng TPBank của Tuấn A. Bị can Trần Tiến T biết rõ nhóm Nguyễn Thị Phương L có hành vi lừa đảo qua mạng và chuyển vào các tài khoản thuê mở tại các ngân hàng của Việt Nam để chiếm đoạt nhưng vẫn cung cấp cho nhóm của Loan 04 gồm; tài khoản số 19038939038017 mở tại Ngân hàng Techcombank mang tên A D; tài khoản số 00000173565 mở tại Ngân hàng TPbank mang tên Trần Gia C; tài khoản mở tại ngân hàng TPBank (số tài khoản 00001198214) và Vietinbank (số tài khoản 102877681004) mang tên Bùi Tuấn A để nhóm này lừa đảo của chị Hvà bẩy bị hại nêu trên với tổng số tiền 3.665.593.000 đồng.

  1. Hành vi phạm tội của Bùi Tuấn A:

Tối ngày 24/12/2022, trong lúc đang sử dụng điện thoại, Tuấn A thấy có các tin nhắn báo tài khoản số 00001198214 mở tại Ngân hàng TPBank mà Tuấn A đã chuyển cho T báo về các giao dịch chuyển tiền đi, chuyển tiền đến với số tiền lớn nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt. Tuấn A đã vào ứng dụng ngân hàng TPBank trên điện thoại nhãn hiệu Iphone 11 ProMax của mình ẩn quên mật khẩu sau đó thực hiện thay đổi mật khẩu mới thành công trên điện thoại và khi đăng nhập vào tài khoản thì thấy số dư tài khoản là 594.052.000 đồng, trong đó của bị hại Đặng Thị H là 151.000.000 đồng; Thân Mỹ T là 50.000.000 đồng; bị hại Vương Thị Thúy Đlà 20.000.000 đồng; bị hại Nguyễn Thị Hồng H là 20.120.000 đồng; bị hại Nguyễn Thế C là 15.000.000 đồng; bị hại Nguyễn Thị Alà 27.000.000 đồng; bị hại Nguyễn Văn S là 310.932.000 đồng chuyển từ tài khoản số 0795829102 mở tại ngân hàng VPBank của A D sau đó các đối tượng chuyển vào tài khoản số 00001198214 mở tại ngân hàng TPBank của Tuấn A), Tuấn A liền tắt máy điện thoại để T và N không liên lạc được. Ngày 25 và 26/12/2022, Tuấn A đã chuyển tổng số tiền 150 triệu đồng vào tài khoản số 45510001185899 mở tại Ngân hàng BIDV của mình để chỉ tiêu cá nhân và trả nợ hết, số tiền còn lại vẫn giữ trong tài khoản TPBank. Phát hiện tài khoản bị thay đổi mật khẩu, không đăng nhập được, nhóm Phương L đã liên hệ yêu cầu T phải giải quyết, trả lại số tiền bị tạm dừng. T đã báo lại cho N rồi nhờ N đi tìm Tuấn A đòi lại tiển. Biết N đi tìm nên Tuấn A liên hệ với N nói đã tiêu hết số tiền 150 triệu đồng chỉ còn 444 triệu đồng nếu lấy lại tiền thì nhắn tin số tài khoản, Tuấn A sẽ trả lại. N báo lại cho T thì T bảo N đưa thông tin tài khoản số 3652838668 mở tại ngân hàng của Nguyễn Hoài H cho Tuấn A chuyển vào đó để mua vé máy bay cho T và Nguyễn Thị Phượng V (là người yêu của T) về Việt Nam. Sau khi nhận được 444 triệu đồng do Tuấn A chuyển đến, ngày 27/12/2022, anh H đã đặt vé máy bay cho T và V về Việt Nam. Sau khi trừ 100 triệu tiền mua vé máy bay, T bảo N thông báo cho anh H chuyển số tiền 344 triệu còn lại vào tài khoản số 0705758942 mở tại Ngân hàng VPbank của T. Nhận được tiền, T đã chuyển khoản cho N 300 triệu đồng nói để chuyển trả cho nhóm Phương L; còn 44 triệu đồng T nói với N chia đôi mỗi người 22 triệu đồng để hỗ trợ đi lại tìm Tuấn A. T trừ nợ 10 triệu đồng N nợ trước đó và chuyển khoản 12 triệu đồng cho N. Lúc này, T có ý định chiếm đoạt riêng 300 triệu đồng nên đã liên hệ nhờ Trần Gia C mượn tài khoản ngân hàng số 4953301105 mở tại Ngân hàng MB của bạn C là Nguyễn Thị Kiều O và bảo N chuyển 300 triệu đồng vào đó để trả cho nhóm Phương L. Sau khi N chuyển tiền cho Kiều O, T đã bảo C nhờ Kiều O chuyển lại 200 triệu đồng vào tài khoản số 0705758942 mở tại Ngân hàng VPBank, 50 triệu đồng vào tài khoản số 0702758942 mở tại Ngân hàng Quân đội và 50 triệu đồng vào tài khoản số 23643027 mở tại Ngân hàng Ả Châu (ACB) đều là của T. Có được số tiền 332 triệu đồng, T sử dụng trả nợ, chi tiêu cá nhân hết. Sau đó Tuấn A, Trần Tiến T  bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lào Cai triệu tập làm việc, tại Cơ quan điều tra các bị can đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 22/CT-VKS-P2 ngày 05/5/2025 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Trần Tiến T về tội “Lừa đảo chiểm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự; Truy tố bị cáo Bùi Tuấn A về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện từ thực hiện hành vi chiểm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 290 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trần Tiến T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự; bị cáo Bùi Tuấn A phạm tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiểm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 290 Bộ luật Hình sự. Đề nghị: Đối với bị cáo Trần Tiến T: Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Tiến T từ 12 năm đến 14 năm tù. Đối với bị cáo Bùi Tuấn A: Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 290; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Tuấn A từ 08 đến 09 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, 589 Bộ luật Dân sự: Tuyên buộc các bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho các bị hại.

Về vật chứng của vụ án: Tiếp tục tạm giữ số tiền mà gia đình các bị cáo và các bị cáo đã nộp để đảm bảo thi hành án.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Trần Tiến T: Nhất trí quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai về tội danh đối với bị cáo Trần Tiến T. Về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ điểm b, k, t khoản 1 Điều 51, áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án đầu khung hình phạt của khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Bùi Tuấn A: Nhất trí quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai về tội danh đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 02 đến 03 năm tù.

Liên hệ Luật sư hình sự 0971115 989 (có zalo) để được hỗ trợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, những người bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tin hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[2.1] Đối với bị cáo Trần Tiến T:

Đã có đủ cơ sở để kết luận, từ khoảng tháng 8/2022 bị cáo đã có hành vi đưa A D, Bùi Tuấn A đi mở các tài khoản ngân hàng mang tên của А D, Bùi Tuấn A và T đã mua tài khoản của Trần Gia C để gửi cho nhóm của Nguyễn Thị Phương L. Bị cáo ý thức được nhóm của L dùng các tài khoản ngân hàng này để luân chuyển dòng tiền có được từ việc đánh bạc và lừa đảo, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Cụ thể 04 tài khoản gồm: Tài khoản số 19038939038017 mở tại Ngân hàng Techcombank mang tên A D nhận số tiền 2.571.541.000 đồng của Đặng Thị H sau đó chuyển 04 mã vào tài khoản số 00001198214 mở tại ngân hàng TPBank và tài khoản số 102877681004 mở tại ngân hàng Vietinbank đều mang tên Bùi Tuấn A; Tài khoản số 00000173565 mở tại Ngân hàng TPbank mang tên Trần Gia C nhận số tiền 499.999.999 đồng của Đặng Thị H; Tài khoản số 00001198214 mở tại ngân hàng TPBank và tài khoản số 102877681004 mở tại ngân hàng Vietinbank đều mang tên Bùi Tuấn A nhận số tiền 594.052.000 đồng của các bị hại chuyển đến, cụ thể: Đặng Thị H là 151.000.000 đồng, Thân Mỹ T là 50.000.000 đồng, Vương Thị Thúy Đ là 20.000.000 đồng, Nguyễn Thị Hồng H là 20.120.000 đồng, Nguyễn Thế C là 15.000.000 đồng, Nguyễn Thị A là 27.000.000 đồng, Nguyễn Văn S là 310.932.000 đồng. Tổng số tiền bị cáo thực hiện chiếm đoạt là 3.665.592.999 đồng.

Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiểm đoạt tài sản” với tình tiết định khung “Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

[2.2] Đối với bị cáo Bùi Tuấn A:

Tháng 12/2022, bị cáo Bùi Tuấn A được Trần Tiến T yêu cầu mở 03 tài khoản ngân hàng để gửi cho nhóm của Nguyễn Thị Phương L thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trong đó có tài khoản số 00001198214 mở tại ngân hàng TMCP Tiên Phong (TP Bank) và tài khoản số 102877681004 mở tại ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank). Sau khi mở tài khoản, Tuấn A đã chuyển quyền quản lý, sử dụng tài khoản cho T để T chuyển cho nhóm của Phương L. Ngày 24/12/2022, bị cáo phát hiện tài khoản 00001198214 mở tại ngân hàng TPBank có biển động số dư lớn nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền có trong tài khoản tại thời điểm đó là 594.052.000 đồng. Bị cáo sử dụng điện thoại di động Iphone 11 ProMax là phương tiện điện tử (theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật giao dịch điện tử), có kết nổi mang internet để vào ứng dụng TPBank trên điện thoại, ân quên mật khẩu, rồi thay đổi mật khẩu, truy cập trái phép vào tài khoản và tạm dừng chiếm đoạt được số tiền 594.052.000 đồng. Sau đó, bị cáo sử dụng chỉ tiêu cá nhân hết số tiền 150 triệu đồng, còn số tiền 444 triệu đồng còn lại trả cho Tạ Quang Nam và Trần Tiến T.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã cấu thành tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung “Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên” theo điểm a khoản 4 Điều 290 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo:

Trong vụ án này, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội hoàn toàn độc lập với nhau, cụ thể như sau:

Bị cáo Trần Tiến T ý thức được nhóm của Phương L mua các tài khoản ngân hàng mục đích để luân chuyển dòng tiền lừa đảo và đánh bạc. Tuy nhiên, do cần tiền tiêu xài nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi mua các tài khoản mang tên A D, Trần Gia C, Bùi Tuấn A đế gửi cho nhóm của Phương L và bị cáo chiếm đoạt số tiền 3.665.592.999 đồng. Đối với hành vi của nhóm Phương L và nhiều bị hại khác bị nhóm người này lừa đảo chiếm đoạt tiền, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai đã tách ra để giải quyết bằng vụ án khác. Do đó bị cáo Trần Tiến T phải chịu trách nhiệm với số tiền 3.665.592.999 đồng như đã nêu trên. Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Đối với bị cáo Bùi Tuấn A sử dụng phương tiện điện tử đăng nhập trái phép tài khoản do người khác đang quản lý, sử dụng nhằm chiếm đoạt trái phép số tiền 594.052.000 đồng. Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động bình thường của môi trường giao dịch điện tử và quy định của Nhà nước về bảo đảm an toàn mạng máy tính, mạng viễn thông và thiết bị số và quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo.

Các bị cáo là những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có sức khoẻ, hiểu biết pháp luật, xã hội nhưng các bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật, để có tiền tiêu xài đã cố ý thực hiện tội phạm. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử lý các bị cáo nghiêm minh trước pháp luật để giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và phòng ngừa chung, phải có mức án tương xứng, buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Đối với bị cáo Bùi Tuấn A đã tác động gia đình khắc phục hậu quả số tiền 50.000.000 đồng và tự nguyện giao nộp số tiền 8.159.917 đồng đang có trong tài khoản số 4551185899 (sổ tài khoản cũ 45510001185899) chủ tài khoản BUI TUAN A mở tại Ngân hàng Thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Hòa Bình của mình để khắc phục hậu quả cho các bị hại. Do đó Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo Bùi Tuấn A tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Trần Tiến T có ông nội là Trần Văn T và bà nội là Nguyễn Thị O được tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhì; Bị cáo Bùi Tuấn A có bố đẻ là ông Bùi Văn H (Bùi Đức H) được tặng Bằng khen và Huy chương chiến sĩ vẻ vang. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Trần Tiến T đã tác động gia đình khắc phục hậu quả số tiền 130.000.000 đồng (Một trăm ba mươi triệu đồng). Tuy nhiên số tiền mà bị cáo khắc phục không đáng kể so với phần nghĩa vụ phải hoàn trả cho các bị hại nên Hội đồng xét xử áp dụng tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo là phù hợp.

Xét thấy bị cáo Bùi Tuấn A có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 4 Điều 290 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

Đối với ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Trần Tiến T đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, k, t khoản 1 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Tiến T theo khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

Đối với ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Bùi Tuấn A đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 02 đến 03 năm tù là quá nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo, không đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm nên không có căn cứ chấp nhận.

[5] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đều yêu cầu được hoàn trả lại số tiền đã chiếm đoạt và xử lý các bị cáo theo quy định của pháp luật. Cụ thể: Chị Đặng Thị H 3.222.540.999 đồng; Chị Thân Mỹ T 50.000.000 đồng; Chị Vương Thị Thúy Đ 20.000.000 đồng; Chị Nguyễn Thị Hồng H 20.120.000 đồng; Anh Nguyễn Thế C 15.000.000 đồng; Chị Nguyễn Thị A 27.000.000 đồng; Anh Nguyễn Văn S 310.932.000 đồng. Tổng số tiền các bị hại bị chiếm đoạt là 3.665.592.999 đồng. Xét thấy yêu cầu của các bị hại là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Xác định bị cáo Trần Tiến T phải chịu trách nhiệm trả lại cho bị hại Đặng Thị H số tiền 3.071.540.999 đồng. Ngày 14/10/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lào Cai đã bàn giao lại số tiền bị chiểm đoạt là 1.469.999.999 đồng cho bị hại Hoa, vì vậy bị cáo còn phải bồi thường cho bị hại H số tiền 1.601.541.000 đồng.

Bị cáo Trần Tiến T và Bùi Tuấn A phải liên đới chịu trách nhiệm trả lại cho các bị hại số tiền 594.052.000 đồng, cụ thể số tiền của các bị hại như sau: Chị Đặng Thị H 151.000.000 đồng; Chị Thân Mỹ T 50.000.000 đồng; Chị Vương Thị Thúy Đ20.000.000 đồng; Chị Nguyễn Thị Hồng H 20.120.000 đồng; Chị Nguyễn Thế C 15.000.000 đồng; Chị Nguyễn Thị A 27.000.000 đồng; Anh Nguyễn Văn S  310.932.000 đồng. Cụ thế, phần của bị cáo Trần Tiến T là 444.052.000 đồng, phần của bị cáo Bùi Tuấn A là 150.000.000 đồng. Tổng cộng bị cáo Trần Tiến T phải bồi thường số tiền 2.045.593.000 đồng, bị cáo Bùi Tuấn A phải bồi thường 150.000.000 đồng cho các bị hại là phù hợp theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46, Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, Điều 587 của Bộ luật Dân sự.

[7] Về vật chứng vụ án:

Đối với 01 điện thoại POCO C40, phiên bản MIUI GloBal 13.0.16 màu đen, điện thoại lắp 01 sim Mobifone của Trần Tiến T; 01 điện thoại di động Iphone 11 ProMax màu vàng của Bùi Tuấn A; 01 điện thoại Iphone 12 Pro Max, màu xanh đen, máy lắp 01 sim Viettel số 0393060987 của Tạ Quang N. Xét thấy đây là công cụ, phương tiện phạm tội còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 01 thẻ CCCD số 042096014658 mang tên Trần Tiến T; 01 thẻ ATM ngân hàng ACB tên “TRAN TIEN T”; 01 thẻ ATM ngân hàng VPBank tên “TRAN TIEN T”, trên thẻ có dãy số: 4541190997672792; 01 thẻ ATM ngân hàng MB, trên thẻ có dãy số serial 822Y78U; 01 thė CCCD mang tên Bùi Tuấn A, số 017090006567. Xét thấy đây là tài sản của các bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, các thẻ ngân hàng không còn tiền trong tài khoản nên cần trả lại cho các bị cáo là phù hợp.

Đối với 01 thẻ ATM ngân hàng TPBank tên BUI TUAN A, mã thẻ 4665849140176593. Xét thấy là vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 122.000.000 đồng (Một trăm hai mươi hai triệu đồng) tạm giữ của Tạ Quang N, Trần Thị Hồng C, Bùi Văn H tại Kho bạc Nhà nước Lào Cai là số tiền do phạm tội mà có, tiền khắc phục hậu quả…nên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) theo Biên lai thu tiền số 0000103 ngày 20/01/2025 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lào Cai là số tiền của bà Trần Thị Hồng C nộp khắc phục hậu quả thay bị cáo Trần Tin T nên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với 01 thẻ ATM ngân hàng BIDV tên BUI TUAN A, mã thẻ 9704180000040006751 trong tài khoản có số tiền 8.159.917 (Tám triệu, một trăm năm mươi chín nghìn, chín trăm mười bảy đồng) (Theo sao kê tài khoản tiền gửi khách hàng từ ngày 15/12/2022 đến 16/11/2023 của Ngân hàng Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Hòa Bình) là tiền khắc phục hậu quả của bị cáo Bùi Tuấn A nên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[8] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

  1. Tuyên bố bị cáo Trần Tiến T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Tiến T 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo ngày 11/4/2024.
  1. Tuyên bố bị cáo Bùi Tuấn A phạm tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 290; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoån 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Tuấn A 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo ngày 11/4/2024.
  1. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 46; Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại POCO C40, phiên bản MIUI GloBal 13.0.16 màu đen, lắp 01 sim Mobifone, điện thoại cũ đã qua sử dụng không kiểm tra chi tiết bên trong của Trần Tiến T; 01 điện thoại di động Iphone 11 ProMax màu vàng, số sê ri: F2LZ80WDN70K, số IMEI: 353887100960429, điện thoại cũ đã qua sử dụng không kiểm tra chỉ tiết bên trong của Bùi Tuấn A; 01 điện thoại Iphone 12 Pro Max, màu xanh đen, số IMEI: 359173734424270 máy lắp 01 sim Viettel, điện thoại cũ đã qua sử dụng không kiểm tra chi tiết bên trong của Tạ Quang N.

Trả lại cho bị cáo Trần Tiến T: 01 thẻ CCCD số 042096014658 mang tên Trần Tiến T, cấp ngày 15/9/2022; 01 thẻ ATM ngân hàng AСВ tên “TRAN TIEN T”; 01 thẻ ATM ngân hàng VPBank tên “TRAN TIEN T”, trên thẻ có dãy số: 4541190997672792.

Trả lại cho bị cáo Bùi Tuấn A: 01 thẻ ATM ngân hàng MB, trên thẻ có dãy số serial 822Y78U; 01 thẻ CCCD số 017090006567 mang tên Bùi Tuấn A, cấp ngày 09/01/2022.

Tịch thu tiêu hủy: 01 the ATM ngân hàng TPBank tên BUI TUAN A, mã thẻ 4665849140176593. (Theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng số 14 ngày 25/11/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lào Cai và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lào Cai).

Tiếp tục tạm giữ: Số tiền 122.000.000 đồng (Một trăm hai mươi hai triệu đồng) được gửi giữ trong trong tài khoản số 3949.0.9051207 của Kho bạc Nhà nước tỉnh Lào Cai theo giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 26/9/2024; Số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) theo Biên lai thu tiền số 0000103 ngày 20/01/2025 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lào Cai và 01 thẻ ATM ngân hàng BIDV tên BUI TUAN A, mã thẻ 9704180000040006751 trong tài khoản có số tiền 8.159.917 (Tám triệu, một trăm năm mươi chín nghìn, chín trăm mười bảy đồng) (Theo sao kê tài khoản tiền gửi khách hàng từ ngày 15/12/2022 đến 16/11/2023 của Ngân hàng Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam chỉ nhánh Hòa Bình) để đảm bảo thi hành án.

      4. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46, Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, Điều 587 của Bộ luật Dân sự:

Buộc bị cáo Trần Tiến T phải trả lại số tiền 1.601.541.000 đồng (Một tỷ, sáu trăm linh một triệu, năm trăm bốn mươi mốt nghìn đồng) cho bị hại Đặng Thị H. Buộc hai bị cáo Trần Tiến T, Bùi Tuấn A phải liên đới trả lại cho các bị hại số tiền 594.052.000 đồng (Năm trăm chín mươi tư triệu, không trăm năm mươi hai nghìn đồng), cụ thể: Đặng Thị H là 151.000.000 đồng (Một trăm năm mươi mốt triệu đồng), Thân Mỹ T là 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), Vương Thị Thúy Đ là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), Nguyễn Thị Hồng Hlà 20.120.000 đồng (Hai mươi triệu, một trăm hai mươi nghìn đồng), Nguyễn Thế C là 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng), Nguyễn Thị A là 27.000.000 đồng (Hai mươi bảy triệu đồng), Nguyễn Văn S là 310.932.000 đồng (Ba trăm mười triệu, chín trăm ba mươi hai nghìn đồng). Trong đó phần của bị cáo Trần Tiến T là 444.052.000 đồng (Bổn trăm bốn mươi bốn triệu, không trăm năm mươi hai nghìn đồng), phần của bị cáo Bùi Tuấn A là 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng). Tổng cộng bị cáo Trần Tiến T phải bồi thường số tiền 2.045.593.000 đồng (Hai tỷ, không trăm bốn mươi lăm triệu, năm trăm chín mươi ba nghìn đồng). Bị cáo Bùi Tuấn A phải bồi thường số tiền 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng).

  1. Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc các bị cáo Trần Tiến T, Bùi Tuấn A mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Buộc bị cáo Trần Tiến T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 72.911.860 đồng (Bảy mươi hai triệu, chín trăm mười một nghìn, tảm trăm sáu mươi đồng). Buộc bị cáo Bùi Tuấn A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 7.500.000 đồng (Bảy triệu, năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Các bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyển yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành ản hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Đánh giá bài viết

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *