BẢN ÁN LY HÔN ĐƠN PHƯƠNG VỚI NGƯỜI HÀN QUỐC


Thông tin bản án ly hôn đơn phương với người Hàn Quốc

Loại vụ việc: Ly hôn đơn phương với người Hàn Quốc đang sinh sống tại Hàn Quốc.

Cấp xét xử: Sơ thẩm.

Tòa án giải quyết: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.

Công ty Luật TNHH Luật Hùng Bách tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng Nguyễn Thị Th – Nguyên đơn trong vụ án.

Khái quát thông tin vụ việc

Sau khi kết hôn, do bất đồng quan điểm, lối sống và phong cách sinh hoạt, chị Th và anh Park J S xảy ra nhiều tranh cãi khiến cuộc sống hôn nhân hết sức nặng nề. Vợ chồng không hạnh phúc. Chị Th sinh sống ở Việt Nam, anh Park J S làm việc tại Hàn khoảng cách địa lý là một trở ngại lớn. Mặc dù đã nhiều lần nói chuyện để hòa giải nhưng vẫn không giải quyết được. Vì vậy, chị Th làm thủ tục đề nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết cho chị được ly hôn với anh Park J S theo quy định.

Bản án ly hôn một bên ở Hàn Quốc
Bản án ly hôn đơn phương với người ở Hàn Quốc

Nội dung vụ án ly hôn đơn phương với người Hàn Quốc

Ngày 19/12/2023, tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:…./2023/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2023 về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số …./2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/11/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: …/2023/QĐST-HNGĐ ngày 04/12/2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th – Sinh năm 1994. Vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ X, Khu Y, phường Z, Tp Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

Bị đơn: Anh Park J S – Sinh năm 1972 – Quốc tịch Hàn Quốc. Vắng mặt.

Địa chỉ: Huyện Yeongwol, tỉnh Gangwondo, Hàn Quốc. Vắng mặt.

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Th trình bày:

Về hôn nhân.

Chị và anh Park kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 28/02/2017 tại Hàn Quốc. Sau khi kết hôn, anh Park sinh sống và làm việc tại Hàn Quốc, chị Th sinh sống và làm việc tại Việt Nam, vợ chồng giữ liên lạc thường xuyên. Đến cuối năm 2017, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên xảy ra tranh cãi khiến cho cuộc sống hôn nhân hết sức nặng nề. Vợ chồng đã nhiều lần nói chuyện để hòa giải nhưng mâu thuẫn vẫn không được giải quyết.

Đến nay, chị Th xác định vợ chồng đã không còn quan tâm đến nhau, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam giải quyết cho ly hôn với anh Park.

Về con chung.

Chị và anh Park không có có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung.

Chị và anh Park tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung.

Chị và anh Park không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Park J S là người nước ngoài và theo yêu cầu của nguyên đơn, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã tiến hành ủy thác tư pháp thông qua Bộ Tự Pháp, Việt Nam để tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo thời gian mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo thời gian mở phiên tòa, các tài liệu, giấy tờ liên quan đến yêu cầu khởi kiện của chị Th và thu thập chứng cứ, lấy lời khai của anh Park J S từ đó có căn cứ giải quyết vụ án.

Ngày 11/09/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã nhận được Công văn số: …../BTP-PLQT ngày 31/08/2023 của Bộ Tư pháp thông báo kết quả ủy thác tư pháp. Theo đó, Cơ quan có thẩm quyền của Đại Hàn Dân Quốc không thực hiện được ủy thác do người nhận vắng mặt 03 lần vào các ngày 19/06/2023, 20/06/2023 và 21/06/2023. Tòa án đã có văn bản yêu cầu chị Th cung cấp địa chỉ chính xác của anh Park J S nhưng chị Th không cung cấp được. Vì vậy, Tòa án đã đăng Thông báo trên Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (ngày 19/10/20023) và Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc (ngày 09/11/2023).

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh tại phiên tòa sơ thẩm phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ Luật Tố Tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật.

Về nội dung: đề nghị chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Th, chị Nguyễn Thị Th được ly hôn anh Park J S.

Nhận định của Tòa án về vụ án ly hôn đơn phương với người Hàn Quốc

Sau khi nghiện cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về tố tụng.

Quá trình giải quyết vụ án, theo đề nghị của nguyên đơn, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã tiến hành ủy thác tư pháp thông qua Bộ Tư pháp để tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo thời gian mở phiên họp kiểm tra giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo thời gian mở phiên tòa, các tài liệu, giấy tờ liên quan đến yêu cầu khởi kiện của chị Th và thu thập chứng cứ, lấy lời khai của anh Park J S từ đó có căn cứ giải quyết vụ án.

Ngày 11/09/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã nhận được Công văn số: …../BTP-PLQT ngày 31/08/2023 của Bộ Tư pháp thông báo kết quả ủy thác tư pháp. Theo đó, Cơ quan có thẩm quyền của Đại Hàn Dân Quốc không thực hiện được ủy thác do người nhận vắng mặt 03 lần vào các ngày 19/06/2023, 20/06/2023 và 21/06/2023. Tòa án đã có văn bản yêu cầu chị Th cung cấp địa chỉ chính xác của anh Park J S nhưng chị Th không cung cấp được. Vì vậy, Tòa án đã đăng Thông báo trên Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (ngày 19/10/20023) và Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc (ngày 09/11/2023).

Như vậy:

Tòa án đã tống đạt hợp lệ và triệu tập hợp lệ cho anh Park J S. Tuy nhiên, đến nay Tòa án vẫn chưa nhận được lời khai, tài liệu, chứng cứ của anh Park J S.

Tại phiên tòa ngày 04/12/2023 và tại phiên tòa hôm nay, bị đơn là anh Park J S đều vắng mặt (không có đơn xin vắng mặt). Vì vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng ninh xét xử vắng mặt anh Park J S là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều  227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Th vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

Về quan hệ hôn nhân.

Chị Nguyễn Thị Th và anh Park J S  đăng ký kết hôn ngày 28/02/2017 tại Hàn Quốc. Ngày 20/04/2017, chị Nguyễn Thị Th đã thực hiện thủ tục ghị chú kết hôn tại UBND thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Sau khi kết hôn, anh Park J S sinh sống và làm việc tại hàn Quốc, chị Th sinh sống và làm việc ở Việt Nam, vợ chồng giữ liên lạc thường xuyên. Đến cuối năm 2017, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên xảy ra tranh cãi khiến cho cuộc sống hôn nhân hết sức nặng nề. Vợ chồng đã nhiều lần nói chuyện để hòa giải nhưng mâu thuẫn vẫn không được giải quyết.

Như vậy, giữa chị Th và anh Park J S không có sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình, không thực hiện nghĩa vụ vợ chồng theo pháp luật Việt Nam. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Th và xử cho chị Th được ly hôn với anh Park J S là phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung giữa chị Th và anh Park J S.

Chị Th khai không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung.

Chị Th và anh Park J S tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung.

Chị Th khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí.

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và các chi phí ly hôn sơ thẩm và các chi phí thực tế thực hiện ủy thác tư pháp ra nước ngoài theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

Quyết định của Tòa án giải quyết ly hôn đơn phương một bên ở Hàn Quốc

Căn cứ: Điều 51, Điều 56, khoản 2 Điều 123 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ; khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 152; Điều 227, Điều 228, Điều 238; Điều 273, khoản 1, khoản 2 Điều 464; khoản 2 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ: điểm a khoản 4 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2026/UBTVQH14 ngày 30/12/2026 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Th.

Về quan hệ hôn nhân.

Chị Nguyễn Thị Th được ly hôn anh Park J S.

Về án phí dân sự sơ thẩm và lệ phí ủy thác tư pháp.

chị Nguyễn Thị Th phải nộp 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm và 200.000 đồng lệ phí ủy thác tư pháp về dân sự, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí và 200.000 đồng lệ phí chị Th đã nộp theo Biên lại thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số:….. và Biên lai thu tiền phí, lệ phí số:…..ngày 22/02/2023 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh.

Chị Nguyễn Thị Th có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày. kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Anh Park J S có quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Bản án ly hôn đơn phương với người ở Hàn Quốc
Dịch vụ Luật sư ly hôn đơn phương với người Hàn Quốc, người Việt Nam ở Hàn Quốc: 0979.890.858 (Zalo)

Luật sư chuyên giải quyết thủ tục ly hôn có yếu tố nước ngoài.

  • Ly hôn có yếu tố nước ngoài nhanh;
  • Ly hôn thuận tình, đơn phương vắng mặt;
  • Ly hôn một bên ở nước ngoài;
  • Ly hôn cả hai bên ở nước ngoài;
  • Ly hôn với người nước ngoài;
  • Ly hôn có tranh chấp tài sản chung, con chung,…;

Khách hàng có nhu cầu hỗ trợ vui lòng liên hệ Luật Hùng Bách qua một trong các phương thức sau:

5/5 - (1 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *