Thông tin bản án tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Loại vụ việc: Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Hợp đồng ủy quyền.
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Công ty Luật TNHH Luật Hùng Bách bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng LTI – là nguyên đơn trong vụ án.
Khái quát bản án Tuyên bố hợp đồng vô hiệu
Nguyên đơn cho bị đơn mượn GCN quyền sử dụng đất và đồng ý ký Hợp đồng ủy quyền để bị đơn dễ dàng làm thủ tục thế chấp vay tiền tại Ngân hàng. Sau đó, bị đơn tự ý ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bên thứ 3. Nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Hợp đồng ủy quyền, Hợp đồng chuyển nhượng giữa bị đơn và bên thứ 3.
Nguyên đơn.
Bà LTI, sinh năm 1969; Địa chỉ: Phố X, thị trấn Y, Huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng. (Có mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của bà I: Ông PTH, sinh năm 1999 và ông BQH, sinh năm 1987; cùng địa chỉ: Số 32 Đỗ Quang, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. (Ông TH và ông QH có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi I hợp pháp của nguyên đơn LTI: Ông NVL – Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH Luật Hùng Bách; địa chỉ: Số 32 Đỗ Quang, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. (Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt).
Bị đơn.
Ông LXH, sinh năm 1994; Nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng (Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Cao Bằng về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo bản án số 98/2024/HS-ST ngày 15/7/2024 của TAND tỉnh Cao Bằng). (Có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn LXH: Bà NTM và ông NMB, hoạt động tại Văn phòng Luật sư Mỹ Đức, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội. (Ông B có mặt; bà M vắng mặt không có lý do)
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
- Bà ĐHG, sinh năm 1991; địa chỉ: Đường X, phường Y, quận Ba Đình, TP Hà Nội. (Có mặt)
- UBND thị trấn Trùng Khánh. Người đại diện theo pháp luật: Ông ĐHL – Chủ tịch UBND thị trấn Trùng Khánh. (Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt)
- Bà ĐTN, sinh năm 1968; địa chỉ: Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. (Có mặt)
- Bà VNHT, sinh năm 1995; địa chỉ: Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. (Vắng mặt, có lý do)
- Ông TVH, sinh năm 1967; địa chỉ: Phố X, thị trấn Y, huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng. (Có mặt)
Người làm chứng.
- Bà HAT, Công chức Tư pháp – hộ tịch UBND thị trấn Trùng Khánh. (Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt)
- Ông LTK, sinh năm 1965; địa chỉ: Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. (Có mặt)
- Bà LTH, sinh năm 1960; địa chỉ: Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. (Có mặt)
Nội dung vụ án tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Ý kiến trình bày của nguyên đơn.
Năm 2021, do cần tiền để trả nợ nên cháu bà là LXH có đến hỏi mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số AK 119510 mang tên bà LTI đối với thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41 tại Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng để đi thế chấp vay tiền tại Ngân hàng về trả nợ. Do thương cháu nên bà đã đồng ý cho H mượn. Sau đó, H nói bà ký giấy ủy quyền thì mới thế chấp được, bà do ít học và tin vào lời cháu nên đã ký vào hợp đồng ủy quyền mà không đọc kỹ nội dung. Tuy nhiên, hợp đồng ủy quyền được cháu H đem đến và yêu cầu bà ký tại nơi bà bán rau (chợ thị trấn Quảng Uyên), bản thân bà không được cùng cháu H ra ký hợp đồng ủy quyền tại Ủy ban nhân dân (UBND) Thị trấn Trùng Khánh nhưng không hiểu vì lý do gì mà ngày 28/9/2021 UBND thị trấn Trùng Khánh vẫn chứng thực hợp đồng với nội dung “tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ yêu cầu và chứng thực, các bên tham gia hợp đồng… đã cùng ký vào hợp đồng trước mặt Bà HAT là người tiếp nhận hồ sơ”. Sau đó, cùng ngày 28/9/2021 LXH ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với toàn bộ phần đất trên cho bà ĐHG, sinh năm 1991, trú tại Đường X, phường Y, quận Ba Đình, TP Hà Nội. Trong Hợp đồng chuyển nhượng có ghi bên chuyển nhượng là bà (LTI) và LXH; nhưng bản thân bà không được biết về hợp đồng này, không được ký vào hợp đồng chuyển nhượng nhưng UBND Thị trấn Trùng Khánh vẫn chứng thực cho Hợp đồng trên. Sau khi biết được việc H lừa dối để chuyển nhượng phần đất của bà, ngày 16/11/2021 bà đã làm đơn tố cáo đến Cơ quan điều tra Công an Huyện Trùng Khánh nhưng ngày 18/3/2022 Công an Huyện Trùng Khánh đã ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Hiện nay, LXH đã nộp hồ sơ đề nghị đăng ký biến động quyền sử dụng đất tại Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Trùng Khánh và đang chờ giải quyết. Nhận thấy, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa LXH và ĐHG không phù hợp với ý chí của bà là chủ sử dụng của phần đất chuyển nhượng và không phù hợp với quy định của pháp luật, bởi lẽ:
Thứ nhất: Hợp đồng ủy quyền có vi phạm trong thủ tục chứng thực hợp đồng (bản thân bà không được ký hợp đồng ủy quyền trước mặt người tiếp nhận hồ sơ là Bà HAT). Trang đầu tiên của Hợp đồng ủy quyền không phải chữ ký của bà, Hợp đồng ủy quyền không được ký tại UBND Thị trấn Trùng Khánh nên Hợp đồng ủy quyền đã vi phạm khoản 3 Điều 36 Nghị định 23/2015/NĐ-CP về chứng thực bản sao chữ ký, hợp đồng. Hợp đồng có dấu hiệu của sự lừa dối (H nói ủy quyền để ký hợp đồng thế chấp GCNQSDĐ nhưng trong hợp đồng ủy quyền lại ghi nội dung chuyển nhượng quyền sử dụng đất).
Thứ hai: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 28/9/2021 ghi bên chuyển nhượng là LTI và LXH nhưng chỉ có LXH ký hợp đồng chuyển nhượng, bản thân bà không được ký hợp đồng nên hợp đồng chuyển nhượng này không có giá trị về mặt pháp lý. Nhận thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm nghiêm trọng nên bà yêu cầu Tòa án nhân dân Huyện Trùng Khánh giải quyết tuyên bố hợp đồng ủy quyền ngày 28/9/2021 giữa bà và LXH là vô hiệu do vi phạm quy định của pháp luật; đồng thời hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 28/9/2021 giữa LXH và ĐHG.
Ý kiến trình bày của bị đơn.
Bà LTI là bác dâu, lấy bác ruột của ông là LVG (LVG – đã chết). Sau khi bác ông chết, bà I đã cho ông vào ngày cưới của ông, ngày 08/5/2018 hai mảnh đất và một tờ di chúc của ông ông (LVS) viết tay trước anh em trong nhà và gia đình nội ngoại hai bên. Do bận công việc và chưa có mục đích sử dụng nên đến ngày 28/9/2021 ông ra đón bà I từ Thị trấn Quảng Uyên, Huyện Quảng Hòa vào Thị trấn Trùng Khánh để làm thủ tục ủy quyền cho ông đúng theo quy định của Nhà nước, ủy quyền cho ông quyền định đoạt, có UBND Thị trấn Trùng Khánh chứng thực ngày 28/9/2021, số chứng thực 292, quyển số 01/2021 – SCT/AD, GD. Chiều cùng ngày, ông và bà ĐHG đến trụ sở UBND thị trấn Trùng Khánh lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41, diện tích là 600,2m² có địa chỉ tại Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng dưới sự chứng kiến của công chức tư pháp HAT. Sau khi ký xong hợp đồng, ông đã nhận tiền đầy đủ (số tiền 200.000.000 đồng) và bàn giao toàn bộ mốc giới thửa đất cùng toàn bộ giấy tờ cho bà G để làm các thủ tục hành chính tiếp theo đăng ký biến động sang tên chính chủ cho bà G. Mọi điều khoản trong hợp đồng đều bình đẳng, tự nguyện, không có sự ép buộc, lừa dối. Đề nghị Tòa án nhân dân Huyện Trùng Khánh bác yêu cầu khởi kiện của bà LTI để bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của ông.
Ý kiến trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Bà ĐHG trình bày.
Bà nhận chuyển nhượng thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41, diện tích 600,2m² địa chỉ tại Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng theo GCNQSDĐ số AK 119510 do UBND Huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng cấp ngày 20/6/2008 đứng tên bà LTI. Ông LXH có xuất trình cho bà hợp đồng ủy quyền giữa bà I và ông H, hợp đồng ủy quyền số chứng thực 292 ngày 28/9/2021 do Phó Chủ tịch UBND thị trấn Trùng Khánh HVS ký. Sau khi bàn bạc, thảo luận, xem xét tính pháp lý theo quy định của pháp luật, bà và ông H đã tiến hành ký hợp đồng chuyển nhượng dưới sự chứng kiến của công chức tư pháp HAT – UBND thị trấn Trùng Khánh vào buổi chiều ngày 28/9/2021. Đến nay, ông H đã nhận đủ số tiền chuyển nhượng (200.000.000 đồng) và đã bàn giao mốc giới cho bà quản lý, sử dụng, sở hữu mảnh đất này hợp pháp, ngay tình từ ngày 28/9/2021 không có tranh chấp với các hộ liền kề.
Ngày 19/10/2021, bà đã nộp hồ sơ chuyển nhượng hợp đồng số 293 và những giấy tờ liên quan để đăng ký biến động, bộ phận tiếp nhận và trả kết quả đã tiếp nhận hồ sơ của bà mang số hiệu 000.00.18.H14-211019-0060, ông TVH ký, trong giấy tiếp nhận có ghi thời gian trả kết quả là ngày 19/11/2021. Đúng hẹn bà không thấy trả kết quả cho bà nên bà mới làm đơn khiếu nại đến Giám đốc văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh Huyện Trùng Khánh thì mới biết Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai Huyện đã tự ý niêm phong hồ sơ của bà chuyển cho Công an.
Từ đó, bà đã làm đơn tố cáo, khiếu nại đến các cơ quan có thẩm quyền, đã được Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Cao Bằng trả lời.
- Ngày 05/6/2022 Công an Huyện ban hành quyết định giải quyết khiếu nại;
- Ngày 15/7/2022 Công an Huyện ban hành thông báo kết quả giải quyết nguồn tin tội phạm;
- Ngày 27/7/2022 Sở Tài nguyên và Môi trường ban hành kết luận nội dung tố cáo đối với bà HTTN;
- Ngày 05/8/2022 Sở Tài nguyên và Môi trường ban hành công văn hướng dẫn số 2473.
Đến nay, bà vẫn đang tiếp tục khiếu nại, tố cáo bà HTTN và ông NVT đã làm sai lệch hồ sơ như giả mạo chữ ký, tô vẽ con dấu, bớt xén ký tự trong văn bản ủy quyền có yếu tố cấu thành tội phạm vi phạm pháp luật hình sự đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện Trùng Khánh, Công an tỉnh Cao Bằng trong việc đăng ký biến động chuyển nhượng thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41, diện tích 600,2m² địa chỉ tại Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng theo GCNQSDĐ số AK 119510 do UBND Huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng cấp ngày 20/6/2008 đứng tên bà LTI. Đề nghị Tòa án nhân dân Huyện Trùng Khánh bác đơn yêu cầu khởi kiện của bà I để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bà và sự đúng đắn của pháp luật.
Bà VNHT trình bày.
Bà là vợ của LXH, bà có biết về tranh chấp hợp đồng giữa H và bà I; khi được nghe mọi người trong gia đình nói chuyện, bà có biết về thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41, diện tích 600,2m² có địa chỉ tại Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng; nguồn gốc thửa đất chỉ biết là ông cụ để lại, còn cụ thể như nào thì không biết. Vào ngày cưới của bà, bà I trao cho bà và ông H bản giấy ủy quyền thừa kế đất ở của ông cụ LVS và GCNQSDĐ của thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41, diện tích 600,2m². Bà I có nói là tài sản này giao lại cho hai cháu vì bá không ở đây nữa. Sau khi được trao tặng thì vợ chồng giao lại các giấy tờ này cho bố mẹ chồng cất giữ. Sau đó một thời gian có nghe ông H nói là sẽ cùng bà I làm thủ tục sang tên bìa đỏ còn việc sang tên được hay không thì bà không rõ vì bà I làm xa. Hai bên phát sinh tranh chấp từ lúc nào bà cũng không rõ, việc ông H bán thửa đất lúc nào, cho ai thì bà cũng không biết.
Ông TVH trình bày.
Ông là chồng của bà LTI, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND phường Sông Bằng, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng năm 2008. Trước khi đến với ông, thì bà I đã có một đời chồng. Ông không biết được thông tin gì về tài sản riêng của bà I, không biết được bà ấy có những tài sản gì, hai vợ chồng cũng không thống nhất hay thỏa thuận gì về gộp tài sản chung, tài sản riêng. Từ khi lấy nhau, bà I cũng không có tâm sự gì về vấn đề tài sản. Trong năm 2021 (không nhớ ngày tháng cụ thể), có một lần ông thấy ông LXH đến gặp bà I nhưng do bận bán hàng nên ông không rõ là đến gặp để làm gì, ông cũng không hỏi, bà I cũng không kể lại cho ông. Ông không được chứng kiến bà I và LXH ký hợp đồng hay giấy tờ gì. Việc bà I khởi kiện H ra Tòa án ông không được biết và ông cũng không có ý kiến gì, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.
Ý kiến trình bày của người làm chứng.
LTK, LTH đều trình bày.
Ông bà không biết gì về tranh chấp hợp đồng giữa H và bà I nhưng có biết về thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41, diện tích 600,2m² có địa chỉ tại Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Nguồn gốc thửa đất là do tổ tiên (ông LVS) để lại cho các con LTH, LVT, LTT, LVG, LCV. Vào ngày cưới của H, được chứng kiến bà I trao cho H sổ đỏ.
Nội dung xác minh của Tòa án.
Ngày 15/8/2022, Tòa án nhân dân Huyện Trùng Khánh đã tiến hành xác minh nội dung chứng thực 02 Hợp đồng: Hợp đồng ủy quyền giữa bà LTI và ông LXH và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng LTI, LXH và bên nhận chuyển nhượng ĐHG, kết quả thể hiện:
Sáng ngày 28/9/2021, bà ĐHG có gọi điện thoại trao đổi với Bà HAT (Công chức tư pháp hộ tịch UBND Thị trấn Trùng Khánh) nhờ bà T lên bộ phận tiếp nhận và trả kết quả (UBND Huyện Trùng Khánh) để chứng thực 02 Hợp đồng nêu trên. Tại thời điểm ký hợp đồng ủy quyền có mặt bà I và H ở đó. Bà I có nói với H là ký gì thì ký đi, hai bên cũng không đọc lại hợp đồng ủy quyền, bà T cũng không đọc lại nội dung hợp đồng ủy quyền cho các bên. Sau khi ký xong hợp đồng ủy quyền, H và G ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, không có mặt bà I ở đó. Việc bà I có biết về hợp đồng chuyển nhượng hay không thì bà T không được biết. Sau khi ký xong 02 hợp đồng, H và bà I về, chỉ có G và bà T về UBND Thị trấn Trùng Khánh để chứng thực 02 hợp đồng, lấy xác nhận của người chứng thực là ông HVS (Phó Chủ tịch UBND Thị trấn Trùng Khánh), người tiếp nhận hồ sơ là Bà HAT, đóng dấu xác nhận và đóng dấu giáp lai của UBND Thị Trấn Trùng Khánh, mỗi loại hợp đồng lập thành 03 bản. Trong đó, hợp đồng ủy quyền giao cho G 02 bản, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giao cho G 02 bản, UBND Thị trấn Trùng Khánh giữ 01 bản Hợp đồng ủy quyền và 01 bản hợp đồng chuyển nhượng. Đối với dấu xác nhận và dấu giáp lai là dấu của UBND Thị trấn Trùng Khánh. Sau khi bà T xem hợp đồng ủy quyền và hợp đồng chuyển nhượng mà bà I cung cấp cho Tòa án, bà T xác nhận không giống với bản mà UBND Thị trấn Trùng Khánh lưu giữ. Cụ thể về con dấu giáp lai của hợp đồng mà bà I cung cấp không sát với lề phải của từng trang giấy giáp lai, khi ghép các trang của hợp đồng lại thì con dấu không được tròn; về chữ ký nháy của từng trang hợp đồng do là bản phô tô nên không biết là chính xác hay không. Sau khi xong thủ tục chứng thực, bà không gặp lại các đương sự và cũng không thực hiện thủ tục gì thêm.
Ngày 08/9/2022, Tòa án đã triệu tập các bên đương sự đến hòa giải nhưng các bên không thoả thuận được với nhau đối với các vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Tại phiên tòa: Nguyên đơn và người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn xác định không có tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm và giữ nguyên yêu cầu tuyên bố hợp đồng ủy quyền ngày 28/9/2021 giữa bà LTI và ông LXH là vô hiệu do vi phạm quy định của pháp luật; đồng thời yêu cầu hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 28/9/2021 giữa LXH và ĐHG. Bị đơn xác định không có tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà ĐHG xác định không có tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm, giữ nguyên các ý kiến đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ án. Đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu của bà I để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bà ĐTN xác nhận: Vào ngày cưới của H và Th thì bà I đã tặng cho H GCNQSDĐ của hai thửa đất, trong đó có một thửa H đã bán cho G. Do đó, tài sản đã thuộc quyền của H. Ngoài ra, bà I kết hôn với ông Gi năm 1999 nhưng không đăng ký kết hôn nên không phải là vợ chồng nên khi ông Gi chết thì bà I không phải là hàng thừa kế thứ nhất của ông Gi và không thể là chủ tài sản của hai thửa đất. Đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu của bà I để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ông TVH xác nhận không có tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Những người làm chứng LTK, LTH đều xác nhận không có gì khai thêm, giữ nguyên các ý kiến đã trình bày trong quá trình Tòa án lấy lời khai.
Tại đơn xin xét xử vắng mặt, người làm chứng HAT trình bày: Xác nhận ngày 28/9/2021, đơn vị có thực hiện chứng thực hợp đồng uỷ quyền giữa bà LTI và ông LXH, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông LXH và bà ĐHG. Việc chứng thực không đúng theo quy định của pháp luật vì hai bên không được ký trước mặt người tiếp nhận hồ sơ. Thực hiện công văn số 2206/UBND-VP ngày 03/11/2023 của UBND Huyện Trùng Khánh, Chủ tịch UBND thị trấn Trùng Khánh đã ra quyết định số 189/QĐ-UBND ngày 09/11/2023 về việc huỷ bỏ giá trị pháp lý của văn bản chứng thực chữ ký trong hợp đồng uỷ quyền số 292, quyển số 01/2021/HĐ,GD ngày 28/9/2021 tại UBND thị trấn Trùng Khánh giữa bà LTI và ông LXH. Lý do: Việc chứng thực không đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/12/2015 của Chính phủ và Điều 20 Thông tư số 01/2020/TT-BTP ngày 03/3/2020 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Tại bản luận cứ mà Tòa án nhận được của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, nội dung trình bày: Bà I vẫn là chủ sử dụng hợp pháp đối với thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41 vì: Thứ nhất, theo quy định tại khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 quy định giao dịch chuyển nhượng tặng cho quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính. Theo quy định này, GCNQSDĐ vẫn đứng tên LTI; Thứ hai, bị đơn không cung cấp được bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào thể hiện giao dịch tặng cho theo quy định của pháp luật; Thứ ba, kể từ thời điểm nhận thừa kế của ông Gi vào năm 2006 cho đến nay, phía nguyên đơn là người trực tiếp quản lý, sử dụng đất một cách ổn định, liên tục. Điều này cho thấy không có việc tặng cho, bàn giao đất cho người khác. Cơ sở để tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 293 vô hiệu: Thứ nhất, giao dịch ủy quyền theo hợp đồng ủy quyền không có giá trị pháp lý, căn cứ vào quy định tại khoản 3 Điều 36 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP. Người có thẩm quyền chứng thực không trực tiếp chứng kiến việc ký kết văn bản. Cụ thể, người tiếp nhận hồ sơ thủ tục chứng thực Hợp đồng ủy quyền thừa nhận việc ký kết hợp đồng không được thực hiện trước mặt người có thẩm quyền chứng thực. Và hiển nhiên ông S – Phó Chủ tịch UBND Thị trấn Trùng Khánh cũng không thực hiện việc kiểm tra hồ sơ, xác minh nhân thân, ý chí và tình trạng của các bên có tên trong hợp đồng. Do đó, hoàn toàn có cơ sở khẳng định thủ tục chứng thực hợp đồng ủy quyền không đảm bảo quy định của pháp luật. Các sai phạm trong thủ tục chứng thực hợp đồng ủy quyền cũng đã được xác định tại Bản án số 39/2024/HS- ST ngày 12/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng đã có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, sau khi xác định có sai phạm trong thủ tục chứng thực hợp đồng ủy quyền, UBND Thị trấn Trùng Khánh đã ra Quyết định số 189/QĐ-UBND về việc hủy bỏ giá trị pháp lý của văn bản chứng thực chữ ký trong hợp đồng ủy quyền tại UBND Thị trấn Trùng Khánh giữa bà LTI và ông LXH; Thứ hai, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị hủy bỏ là kết quả tất yếu của việc tuyên Hợp đồng ủy quyền không có giá trị pháp lý, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015.
Người bảo vệ quyền và lợi I hợp pháp của bị đơn trình bày bản luận cứ: Việc ký hợp đồng ủy quyền giữa bà I và ông H là hoàn toàn đúng quy định của Bộ luật dân sự, tại Điều 117 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, Điều 138 về đại diện theo ủy quyền, Điều 562 về hợp đồng ủy quyền, bà I và ông H có đầy đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, các bên tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện, mục đích và nội dung không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Hợp đồng ủy quyền đã được Phó Chủ tịch UNBD Thị trấn Trùng Khánh ký chứng thực, đúng với Điều 35, 36 và 43 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ quy định về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch. Trong kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng số 31/KL-GĐTL ngày 01/01/2023 chữ ký trên hợp đồng ủy quyền là chữ ký của bà LTI. Ngay trong thông báo của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện Trùng Khánh số 104/TB-CSĐT ngày 20/3/2022 “xác định bản hợp đồng ủy quyền… được UBND Thị trấn Trùng Khánh chứng thực ngày 28/9/2021 là bản hợp đồng hai bên hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc. Sau khi LXH được ủy quyền, H làm thủ tục chuyển nhượng mảnh đất trên cho ĐHG…”. Về việc thực hiện hợp đồng ủy quyền, ông H đã chuyển nhượng cho bà ĐHG thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41. Hợp đồng này hoàn toàn hợp pháp, đúng quy định tại điểm d khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013; Điều 116, 117, 118, 119 về giao dịch dân sự của Bộ luật Dân sự 2015. Đến nay, ông H đã bàn giao toàn bộ diện tích chuyển nhượng cho bà G, bà G đã quản lý và thực hiện mọi nghĩa vụ với Nhà nước, hai bên không có tranh chấp. Và kể từ thời gian ký hợp đồng ngày 28/9/2021 đến khi Tòa án nhân dân Huyện Trùng Khánh thụ lý vụ án là 08 tháng bà I mới có đơn đề nghị Tòa án hủy hợp đồng, việc đề nghị hủy hợp đồng là việc đơn phương của bà I, đương nhiên trong giai đoạn này hợp đồng ủy quyền và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đang có hiệu lực pháp luật, mọi giao dịch trong giai đoạn này không ai có quyền bãi bỏ. Hơn nữa, bà I không phải là vợ hợp pháp của ông Gi nên không có quyền thừa kế, UBND Huyện Trùng Khánh cấp GCNQSDĐ cho bà I là trái pháp luật, có dấu hiệu gian dối, cần phải chuyển Cơ quan điều tra xác minh làm rõ việc cấp GCNQSDĐ cho bà LTI. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ nội dung khởi kiện của bà LTI. Đồng thời chuyển Cơ quan điều tra xem xét hành vi của bà LTI đã gian dối trong việc khai nhận thừa kế để chiếm đoạt tài sản của các hàng thừa kế và việc cấp GCNQSDĐ của UBND Huyện Trùng Khánh là trái pháp luật.
Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
– Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Các đương sự và những người tham gia tố tụng khác thực hiện đúng, đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo các Điều 70, 71, 72, 73, 76, 77 Bộ luật tố tụng dân sự.
– Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, 147, 161, 162, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 117, Điều 122, Điều 127, Điều 129, Điều 131, Điều 407 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 168, Điều 188 Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, tuyên bố Hợp đồng uỷ quyền ngày 28/9/2021 giữa bên uỷ quyền bà LTI và bên được uỷ quyền LXH và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 28/9/2021 giữa bên chuyển nhượng LTI, LXH với bên nhận chuyển nhượng ĐHG đối với thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41, diện tích 600,2m² toạ lạc tại Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng là vô hiệu. Buộc bị đơn ông LXH phải trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ĐHG số tiền 200.000.000 đồng là số tiền đã nhận từ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41, diện tích 600,2m² có địa chỉ tại tổ dân phố X, Thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
– Về chi phí giám định chữ ký: Buộc bị đơn ông LXH trả cho nguyên đơn bà LTI số tiền 2.790.000 đồng; về án phí: Bị đơn LXH phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu và 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Trả lại cho nguyên đơn số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai số 0004171 ngày 27 tháng 5 năm 2022 tại Chi cục Thi Hành án dân sự Huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
– Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Nhận định của Tòa án
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; lời trình bày của các đương sự và người tham gia tố tụng khác, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Tòa án nhận định các vấn đề cần giải quyết như sau:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp là “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu” là một dạng của tranh chấp hợp đồng dân sự. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn trước khi bị tạm giam cư trú tại Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân Huyện Trùng Khánh thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2] Tại phiên tòa vắng mặt một số người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người làm chứng.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt đã có lời khai và đã đề nghị giải quyết vắng mặt; Căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 229 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[3] Về nội dung:
Nguyên đơn bà LTI khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng uỷ quyền ngày 28/9/2021 giữa bên uỷ quyền bà LTI và bên được uỷ quyền LXH là hợp đồng vô hiệu. Huỷ bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 28/9/2021 giữa bên chuyển nhượng LTI, LXH với bên nhận chuyển nhượng ĐHG đối với thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41, diện tích 600,2m² tọa lạc tại Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Xét yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định như sau: Bà LTI kết hôn với ông LVG vào năm 1999. Hai vợ chồng không có con chung, con nuôi, con riêng. Ngày 10/10/1999, ông LVS (bố chồng bà I) viết di chúc để lại cho ông Gi thừa kế 02 thửa đất tại Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Năm 2006, ông Gi chết. Tháng 4/2007 bà I mang di chúc đích làm thủ tục cấp GCNQSDĐ cho 02 thửa đất trên. Ngày 20/6/2008, UBND Huyện Trùng Khánh đã cấp GCNQSDĐ số phát hành AK119510 cho thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41, diện tích 600,2m² và GCNQSDĐ số phát hành AK119511 cho thửa đất số 48, tờ bản đồ số 40, diện tích 360,7m² đứng tên “LTI”. Năm 2008, bà I kết hôn lần hai và chuyển đến sinh sống tại Phố X, thị trấn Y, Huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng. Đến năm 2019, bà I giao 02 GCNQSDĐ trên cho ông LCV (em trai ông LVG) bảo quản. LXH là con trai ông V gặp khó khăn trong làm ăn, buôn bán, biết gia đình đang quản lý 02 GCNQSDĐ của bà I nên khoảng tháng 8/2021, H đến gặp bà I hỏi mượn 02 (hai) GCNQSDĐ trên đích thế chấp ngân hàng để vay tiền, bà I đồng ý và cho H thông tin cá nhân (Căn cước công dân, sổ hộ khẩu). Sau đó, H đã hỏi nhiều nơi về thủ tục vay ngân hàng nhưng không thực hiện được. Vì đang cần tiền nên H liên hệ với ĐHG để trao đổi mua bán 02 thửa đất trên. G đã nhờ TVH (Cán bộ công tác tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo thủ tục hành chính thuộc Văn phòng Hội đồng nhân dân- UBND Huyện Trùng Khánh) kiểm tra giúp thông tin của 02 thửa đất này. Sau khi biết thửa đất số 48 vào quy hoạch của thị trấn Trùng Khánh, còn thửa đất số 29 sắp tới có con đường đi qua thì G đồng ý mua với H thửa đất số 29 với số tiền 200.000.000 đồng. G có nhờ TVH làm giúp các giấy tờ, thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hứa sau khi làm xong sẽ cảm ơn. TVH đồng ý. Sáng ngày 28/9/2021, khi thấy H và bà I đến Bộ phận một cửa, TVH đưa cho H 03 bản Hợp đồng ủy quyền để H và bà I ký. Sau khi ký xong H và bà I ra về, TVH liên lạc với G đến nhận 03 bản Hợp đồng ủy quyền, 05 bản Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và các giấy tờ của các bên liên quan đến UBND thị trấn Trùng Khánh làm thủ tục chuyển nhượng. Sau khi đưa bà I về nhà tại Quảng Hòa, H quay lại Trùng Khánh gặp G rồi cùng Giang đến UBND thị trấn Trùng Khánh ký vào các bản Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, có HAT (cán bộ Tư pháp hộ tịch UBND thị trấn Trùng Khánh) chứng kiến. Sau đó, G đưa cho T bộ hồ sơ chuyển nhượng, T kiểm tra thấy có 03 bản Hợp đồng ủy quyền có chữ ký của bà I và H nhưng không có sự chứng kiến của T nên đã gọi điện thoại cho TVH để hỏi, thì TVH cho biết bà I và H đã ký tại Bộ phận một cửa có sự chứng kiến của TVH. Do tin tưởng TVH nên T đã ký vào các trang của 03 bản Hợp đồng ủy quyền và trình ông HVS là Phó Chủ tịch UBND thị trấn Trùng Khánh ký. Sau đó, T thực hiện chứng thực và đưa lại cho G. G đã đến gặp TVH và đưa 01 bản Hợp đồng ủy quyền, 02 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và các loại giấy tờ liên quan cho TVH. Như vậy, khi đến gặp bà I để hỏi mượn hai GCNQSDĐ H nói mục đích mượn là để làm thủ tục vay tiền ngân hàng nên được bà I đồng ý cho mượn để chuyển nhượng thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41, diện tích 600,2m² với giá 200.000.000 đồng. Hợp đồng uỷ quyền và hợp đồng chuyển nhượng đều do G nhờ TVH soạn thảo. Sáng ngày 28/9/2021, H đón bà I đến bộ phận một cửa ký hợp đồng uỷ quyền và không nói mục đích là để chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 29 và tự mình ký hợp đồng chuyển nhượng với ĐHG. Do đó, có căn cứ khẳng định H đã lừa dối bà I để ký hợp đồng uỷ quyền (theo thoả thuận là uỷ quyền để vay tiền ngân hàng). Bên cạnh đó, Hợp đồng uỷ quyền không được ký trước mặt người tiếp nhận hồ sơ, chứng thực ngoài trụ sở nhưng không ghi rõ thời gian (giờ, phút) chứng thực vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 10 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/12/2015 của Chính phủ và Điều 20 Thông tư số 01/2020/TT-BTP ngày 03/3/2020 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Ngày 09/11/2023, UBND thị trấn Trùng Khánh đã huỷ bỏ giá trị pháp lý của văn bản chứng thực chữ ký trong hợp đồng uỷ quyền số 292, quyển số 01/2021/HĐ,GD ngày 28/9/2021 tại UBND thị trấn Trùng Khánh giữa bà LTI và ông LXH. Do LXH đã lừa dối bà LTI để ký hợp đồng uỷ quyền nên hợp đồng uỷ quyền đã ký kết vô hiệu theo quy định tại Điều 127 Bộ luật dân sự năm 2015. Hợp đồng uỷ quyền bị vô hiệu nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng không có giá trị và bị vô hiệu. Từ những nhận định và phân tích trên, xét thấy toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn và bản luận cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là có căn cứ để chấp nhận.
[4]. Về ý kiến của bị đơn và những người tham gia tố tụng khác:
– Về ý kiến của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan VNHT, ĐTN cho rằng H đã được tặng cho hai thửa đất: Tại khoản 3 Điều 188 Luật đất đai năm 2013 quy định việc tặng cho quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính. Trong khi đó, hai bên chưa làm thủ tục tặng cho. Đến thời điểm H đặt vấn đề mượn GCNQSDĐ với bà I để làm thủ tục vay ngân hàng thì hai thửa đất vẫn đứng tên bà I và thuộc quyền quản lý, sử dụng của bà I. Chính vì ý thức được bà I là người có quyền định đoạt đối với hai thửa đất nên H mới thoả thuận với bà I để lập hợp đồng uỷ quyền cho H để H thay mặt bà I thực hiện các giao dịch dân sự (theo thoả thuận là sử dụng vay tiền ngân hàng). Đối với ý kiến cho rằng bà I không phải là hàng thừa kế thứ nhất của ông Gi và không thể là chủ tài sản của hai thửa đất: Hội đồng xét xử xác định tại thời điểm các bên ký kết hợp đồng uỷ quyền thì GCNQSDĐ đứng tên bà I và bà I là người có quyền định đoạt đối với tài sản này. Như vậy, việc bà I có phải là hàng thừa kế thứ nhất của ông Gi và là chủ tài sản của hai thửa đất hay không nằm ngoài phạm vi của vụ án này. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp thừa kế đối với thửa đất số 29 và thửa đất số 48 thì những người có quyền khởi kiện sẽ khởi kiện bằng một vụ án khác. Tuy nhiên, sau khi mượn được hai GCNQSDĐ với bà I, H đã liên hệ G.
– Về ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn cho rằng hợp đồng uỷ quyền đã ghi rõ nội dung, phạm vi, quyền và nghĩa vụ của các bên, thể hiện ý chí của bà I và bà I đã ký vào hợp đồng: Quá trình giải quyết vụ án, phía nguyên đơn đều cho rằng việc cho H mượn bìa đỏ là để vay ngân hàng, chính vì tin tưởng cháu nên khi ký hợp đồng uỷ quyền đã không đọc lại các nội dung trong hợp đồng. Tuy nhiên, H đã không thực hiện đúng theo mục đích ban đầu của việc thoả thuận giữa H và bà I là vay tiền ngân hàng mà thực hiện việc chuyển nhượng thửa đất số 29 cho ĐHG với số tiền 200.000.000 đồng. Tài liệu trong hồ sơ thể hiện sự nhanh chóng, liên tục lập các giấy tờ: Hợp đồng uỷ quyền vào số chứng thực 292, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào số chứng thực 293 ngày 28/9/2021. Việc chuyển nhượng trên H không nói cho bà I biết, chỉ đến khi NVT, viên chức Văn phòng đăng ký đất đai thông tin thì bà I mới biết và tố cáo đến cơ quan Công an. Số tiền 200.000.000 đồng có từ việc chuyển nhượng đất thì H cũng đã sử dụng để chi tiêu cá nhân hết. Như vậy, có căn cứ khẳng định LXH lừa dối bà LTI để ký hợp đồng uỷ quyền.
[5]. Về giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu:
Do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 28/9/2021 giữa bên chuyển nhượng LTI, LXH với bên nhận chuyển nhượng ĐHG đối với thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41, diện tích 600,2m² toạ lạc tại Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằnglà hợp đồng vô hiệu như đã nhận định tại mục [3] không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Các bên có nghĩa vụ khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, cả ông H và bà G đều thừa nhận đã giao nhận cho nhau đủ số tiền 200.000.000 đồng. Do vậy, LXH có trách nhiệm trả lại cho ĐHG số tiền 200.000.000 đồng.
[6]. Về chi phí định giá tài sản và chi phí giám định chữ ký:
Nguyên đơn đã tạm nộp số tiền 10.000.000 đồng, số tiền này Tòa án đã chi hết 2.790.000 đồng chi phí giám định chữ ký, số còn lại 7.210.000 đồng Tòa án đã tiến hành trả lại cho nguyên đơn. Do toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu chi phí giám định số tiền 2.790.000 đồng.
[7]. Về án phí:
Do toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn LXH phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu và 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu để sung vào Ngân sách Nhà nước. Nguyên đơn bà LTI được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0004171 ngày 27/5/2022 do Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng thu.
[8] Về quyền kháng cáo:
Căn cứ các Điều 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
Quyết định
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 161, Điều 162, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 229, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 117, Điều 122, Điều 127, Điều 131, Điều 357, Điều 407, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 168, 188 Luật Đất đai năm 2013; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Tuyên bố Hợp đồng uỷ quyền ngày 28/9/2021 giữa bên uỷ quyền bà LTI với bên được uỷ quyền LXH và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 28/9/2021 giữa bên chuyển nhượng LTI, LXH với bên nhận chuyển nhượng ĐHG đối với thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41, diện tích 600,2m² tọa lạc tại Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng là hợp đồng vô hiệu. Buộc bị đơn ông LXH phải trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ĐHG số tiền 200.000.000 đồng, là số tiền đã nhận từ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 29, tờ bản đồ số 41, diện tích 600,2m² có địa chỉ tại Tổ dân phố X, thị trấn Y, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
2/ Về chi phí giám định chữ ký:
Buộc bị đơn ông LXH trả cho nguyên đơn bà LTI số tiền 2.790.000 đồng.
3/ Về án phí:
Bị đơn ông LXH phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu và 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu để sung vào Ngân sách Nhà nước. Nguyên đơn bà LTI được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0004171 ngày 27/5/2022 do Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng thu.
4/ Về quyền kháng cáo:
Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt Bản án hợp lệ. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại các Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Luật sư chuyên về đất đai – Luật Hùng Bách.
Luật Hùng Bách là một đội ngũ Luật sư có nhiều kinh nghiệm pháp lý trong lĩnh vực đất đai. Chúng tôi sẵn sàng cung cấp các dịch vụ pháp lý sau:
- Tư vấn về quy định của pháp luật liên quan đến đất đai.
- Hỗ trợ giải quyết các tranh chấp đất đai. Và cung cấp dịch vụ tư vấn tương ứng với từng trường hợp cụ thể.
- Giúp đỡ trong quá trình giải quyết tranh chấp và bồi thường khi đất bị thu hồi.
- Hỗ trợ viết đơn khi có tranh chấp về đất đai.
- Hướng dẫn thủ tục và lưu trữ hồ sơ trong tranh chấp đất đai. Bao gồm cả mua bán và chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
- Tư vấn và hỗ trợ viết đơn yêu cầu hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai.
- Soạn thảo và hướng dẫn viết đơn khởi kiện trong tranh chấp đất đai.
- Tư vấn và hướng dẫn thu thập hồ sơ và tài liệu cần thiết.
- Đại diện và ủy quyền Luật sư để tham gia giải quyết tranh chấp đất đai tại cơ quan có thẩm quyền.
Chúng tôi cam kết đem đến sự tư vấn và hỗ trợ chuyên sâu cho khách hàng, đảm bảo các quyền và lợi ích của khách hàng trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai.
Liên hệ Luật sư đất đai – Luật Hùng Bách.
Để tiện lợi cho việc liên lạc, bạn có thể liên hệ Luật sư tại chi nhánh ở: TP. Hà Nội; TP. Hồ Chí Minh; Đà Nẵng; Khánh Hòa; Hà Tĩnh; Nhật Bản;… theo các phương thức sau:
- Tư vấn qua điện thoại: 097.111.5989 (Zalo)
- Email: luathungbach@gmail.com.
- Facebook: Công ty Luật Hùng Bách.