Bản án tranh chấp quyền nuôi con một bên là người nước ngoài


Thông tin bản án

Loại vụ việc: Ly hôn đơn phương tranh chấp quyền nuôi con (một bên là người nước ngoài).

Cấp xét xử: Sơ thẩm.

Tòa án giải quyết: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.

Công ty Luật TNHH Luật Hùng Bách tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng Uhm – là nguyên đơn trong vụ án.

Khái quát vụ việc tranh chấp quyền nuôi con

Nhận thấy cuộc sống hôn nhân phát sinh nhiều bất đồng, mâu thuẫn, 2 bên đã ly thân lâu ngày và không còn quan tâm đến nhau nên anh Uhm làm thủ tục đề nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đ.T.N. Bên cạnh đó, anh Uhm có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Thống nhất với quan điểm của anh Uhm về quan hệ hôn nhân. Chị N nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn giữa 2 bên đã trở nên trầm trọng nên đồng ý ly hôn với anh Uhm. Tuy nhiên, giữa 2 bên phát sinh tranh chấp về phần con chung, chị cũng có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu H.

Anh Uhm yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh giải quyết thủ tục ly hôn, giành quyền nuôi con với chị Đ.T.N

Chi tiết bản án

Ngày 23 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: …/2023/TLST-HNGĐ ngày 04/10/2023 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: …/2024/QĐXXST- HNGĐ ngày 03 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:

– Nguyên đơn: Anh Uhm, sinh năm 1981; Địa chỉ thường trú: XX, Yonghyeon-dong, Michuhol-gu, Incheon, Hàn Quốc.

Nơi ở hiện tại: Tổ dân phố M, phường K, thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt;

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Chí N, địa chỉ: Số 32 Đỗ Quang, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Có mặt;

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Văn Luật, Công ty Luật TNHH Hùng Bách; Địa chỉ: Số 32 Đỗ Quang, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Có mặt;

– Bị đơn: Chị Đ.T.N , sinh năm 2002; Địa chỉ: Số nhà N, khu L phường Đáp Cầu, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Vắng mặt;

Người phiên dịch: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1997; Địa chỉ: Công ty dịch thuật Vạn Tín, văn phòng tầng 9, toà nhà số 169 Nguyễn Ngọc Vũ, Trung Hoà, Cầu Giấy, Hà Nội. Có mặt;

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1982 (mẹ đẻ chị N); Địa chỉ: Số nhà N, khu L phường Đáp Cầu, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.

bản án tranh chấp quyền nuôi con
Liên hệ Luật sư tư vấn hôn nhân gia đình – Luật Hùng Bách: 0979.890.858 (Zalo)

Nội dung vụ án tranh chấp quyền nuôi con.

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại tòa án, nguyên đơn anh Uhm và người bảo vệ quyền và lợi ích cho anh Uhm trình bày:

Anh Uhm và chị Đ.T.N đăng ký kết hôn ngày 30/7/2020 trên cơ sở tự nguyện và đã được UBND thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh cấp giấy chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn từ khoảng tháng 4/2023. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm về nhiều vấn đề trong cuộc sống cũng như cách nuôi dạy con cái. Vợ chồng hay cãi nhau khiến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng và cuộc sống chung ngột ngạt. Hai bên đã nhiều lần ngồi lại nói chuyện mong hòa giải mâu thuẫn nhưng không thành. Hiện tại vợ chồng đang sống ly thân.

Sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng và xác định tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, anh Uhm đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh giải quyết cho anh được ly hôn theo pháp luật hiện hành.

Con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Đ.B.H, sinh ngày 03/7/2019. Hiện cháu H đang sinh sống cùng ông bà ngoại tại phường Đáp Cầu, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Khi ly hôn anh có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Đ.B.H. Anh không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung và công nợ: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh Uhm trình bày:

Anh Uhm và chị Đ.T.N đăng ký kết hôn vào ngày 30/7/2020 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và đã được UBND thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh cấp giấy chứng nhận kết hôn. Quan điểm của hai bên đều cho rằng trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất đồng, hôn nhân không hạnh phúc. Qua các buổi làm việc lấy ý kiến tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh anh chị đều thống nhất quan điểm tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và đề nghị được ly hôn. Vì vậy, đề nghị Tòa án công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Uhm và chị Đ.T.N

Về quyền nuôi con chung: Anh chị có một con chung là cháu Đ.B.H, sinh ngày 03/7/2019. Anh Uhm có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H sau khi ly hôn. Nguyện vọng này là có cơ sở bởi những lý do sau:

Thứ nhất, anh Uhm có công việc ổn định với mức thu nhập cao: Anh Uhm là lao động làm việc cho Công ty M  được thành lập tại Hàn Quốc (có Hợp đồng lao động kèm theo). Hiện nay anh Uhm được cử sang Việt Nam với vai trò chuyên gia nước ngoài thực hiện việc tư vấn, giám sát.

Theo Hợp đồng lao động giữa anh Uhm với Công ty M, anh Uhm có thu nhập quy đổi ra Việt Nam đồng vào khoảng 1.579.562.000 đồng/năm, khoảng 131.630.166 đồng/tháng (Một trăm ba mươi mốt triệu sáu trăm ba mươi nghìn một trăm sáu mươi sáu đồng). Hiện anh Uhm vẫn còn thời hạn lao động dài hạn tại Việt Nam, có điều kiện về kinh tế để đảm bảo cuộc sống tốt nhất cho cháu Đ.B.H

Thứ hai, trong thời gian ly thân, anh Uhm vẫn chu cấp, quan tâm chăm lo cho con: Mặc dù tình cảm vợ chồng không còn, hai vợ chồng đã sống ly thân nhưng anh Uhm vẫn quan tâm, chăm lo cho cuộc sống của con. Hàng tháng anh Uhm vẫn chuyển tiền cho bà Nguyễn Thị H (là mẹ đẻ chị N) qua tài khoản số XXXXXX, ngân hàng Viettinbank, người thụ hưởng: NGUYEN THI H để chu cấp cho cuộc sống của cháu H. Việc chu cấp cho con được thể hiện qua các sao kê ngân hàng kèm theo, cụ thể:

  • Ngày 02/09/2023, chuyển khoản 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
  • Ngày 02/10/2023, chuyển khoản 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).
  • Ngày 01/11/2023, chuyển khoản 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).
  • Ngày 08/11/2023, chuyển khoản 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).
  • Ngày 05/12/2023, chuyển khoản 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).
  • Ngày 06/01/2024, chuyển khoản 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

Bên cạnh việc chu cấp về mặt tài chính cho cuộc sống của con, anh Uhm còn dành thời gian trực tiếp thăm nom chăm sóc con. Mặc dù làm công việc kỹ sư phụ trách giám sát, thường xuyên bận rộn nhưng cuối tuần có thời gian rảnh anh Uhm đều dành thời gian về chăm sóc con.

Thứ ba, anh Uhm có điều kiện để chăm sóc con sau ly hôn: Với điều kiện về mặt kinh tế thì việc đảm bảo cuộc sống cho cháu H sau khi ly hôn của anh Uhm là điều rất khả thi. Về nhà ở, anh Uhm hiện đang tạm trú tại thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Dự định sau khi ly hôn anh Uhm sẽ đón cháu H về sống cùng và đăng ký cho con học trường mầm non Quốc tế tại Phổ Yên, Thái Nguyên.

Về thời gian làm việc anh Uhm làm việc theo chế độ 8 tiếng/ngày, ngoài giờ làm việc anh Uhm có nhiều thời gian để chăm sóc con trong cuộc sống hàng ngày.

Về vấn đề ngôn ngữ anh Uhm hiện nay có thể nghe hiểu và nói được Tiếng Việt cơ bản. Anh đang tích cực học Tiếng Việt để giao tiếp với con trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra anh Uhm dự định cho cháu H học tại trường mầm non Quốc tế Việt – Hàn để cháu H có thể biết thêm tiếng Hàn, từ đó giữa anh và cháu H có thể vượt qua rào cản về ngôn ngữ.

Thứ tư, chị Đ.T.N không chứng minh được điều kiện về kinh tế, không có thời gian chăm sóc con sau ly hôn. Theo như nội dung trong bản tự khai của chị N tại buổi công khai tài liệu chứng cứ, chị N hiện đang làm việc tại Công ty TNHH Công nghệ điện tử G (MST: XXXX; Địa chỉ: khu đô thị Him Lam, phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh). Tuy nhiên đến thời điểm này chị N chưa cung cấp bất kỳ văn bản nào chứng minh công việc cũng như thu thập của mình.

Thêm vào đó chị N thường xuyên đi nước ngoài dài hạn (thường mỗi lần đi nước ngoài từ 1, 2 tháng hoặc có thể lâu hơn). Chị N thường để lại con cho ông bà ngoại chăm sóc chứ không trực tiếp chăm sóc cho cháu H. Chị N cũng không đưa ra được bằng chứng chứng minh việc gửi tiền cấp dưỡng về để chăm lo cho cháu H trong thời gian chị đi làm xa.

Như vậy, chị N không chứng minh được mình có đủ điều kiện về kinh tế cũng như việc dành thời gian chăm sóc con. Điều này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của cháu H.

Từ những lý do trên, căn cứ Điều 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Tòa án xem xét, đánh giá điều kiện của hai bên và giao cháu H cho anh Uhm trực tiếp chăm sóc sau ly hôn. Cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu chị N cấp dưỡng.

Bị đơn là chị Đ.T.N trình bày:

Chị và anh Uhm đăng ký kết hôn vào ngày 30/7/2020 trên cơ sở tự nguyện và đã được UBND thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh cấp giấy chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Hai vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn từ năm 2020. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm về nhiều vấn đề trong cuộc sống cũng như cách nuôi dạy con cái. Vợ chồng đã sống ly thân khoảng ba năm. Nay, anh Uhm đề nghị ly hôn, chị cũng đồng ý.

Con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Đ.B.H, sinh ngày 03/7/2019. Khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giao cháu H cho chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Hiện cháu H đang sống cùng mẹ đẻ chị là N.T.H ở phường Đáp Cầu, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Chị đang làm việc tại công ty thương mại điện tử ở khu đô thị Him Lam, nghề nghiệp chính là bán hàng, thu nhập khoảng 17.000.000 đ/tháng đến 20.000.000 đ/tháng và tiền hoa hồng khoảng 20.000.000 đ/tháng đến 25.000.000 đ/tháng, có thể đảm bảo cho sự phát triển ổn định của cháu H. Thỉnh thoảng chị phải đi công tác tại nước ngoài (Thái Lan), không cố định thời gian. Trong khi chị N đi nước ngoài thì bố mẹ chị ở nhà chăm sóc cháu H. Thời gian vừa qua, việc anh Uhm hàng tháng chuyển tiền cho bố mẹ chị để nuôi cháu H thì chị không biết.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị N không yêu cầu anh Uhm cấp dưỡng.

Tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết

Tại phiên tòa hôm nay, chị N được Tòa án triệu tập hợp lệ 02 lần đến phiên tòa nhưng vắng mặt; mẹ chị N là bà H có mặt tại phiên toà trình bày do chị N hiện đang ở Singapore nên không có mặt tại phiên toà theo giấy báo của Toà án. Anh Uhm và luật sư giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, thống nhất đề nghị cho anh Uhm và chị Đ.T.N được ly hôn; giao cháu Đ.B.H, sinh ngày 03/7/2019, giới tính: nữ cho anh Uhm trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử từ khi thụ lý vụ án đến khi Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật. Anh Uhm đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Về đường lối giải quyết vụ án, Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

– Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Uhm được ly hôn chị Đ.T.N.

– Con chung: Giao cháu Đ.B.H, sinh ngày 03/7/2019 cho chị Đ.T.N nuôi dưỡng, anh Uhm không phải cấp dưỡng nuôi con.

– Tài sản chung và công nợ: Không có.

Nhận định của Tòa án về tranh chấp quyền nuôi con với người nước ngoài.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Thủ tục tố tụng.

Nguyên đơn anh Uhm  là công dân Hàn Quốc đang sinh sống, làm việc tại Việt Nam có đơn yêu cầu ly hôn với chị Đ.T.N , địa chỉ cư trú tại: Số nhà N, khu L phường Đáp Cầu, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Như vậy, đây là vụ án ly hôn có đương sự là người nước ngoài, đang cư trú tại Việt Nam và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã ban hành văn bản tố tụng và gửi cho các đương sự về thời gian xét xử vụ án. Chị N vắng mặt tại phiên toà lần thứ 02 nên Toà án tiến hành xét xử vắng mặt chị N theo quy định của pháp luật.

Nội dung vụ án.

– Quan hệ hôn nhân: Anh Uhm và chị Đ.T.N kết hôn ngày 30/7/2020 trên cơ sở tự nguyện, đảm bảo mọi điều kiện kết hôn theo pháp luật. Vì vậy, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Cả anh Uhm và chị N đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc, thời gian ly thân đã lâu và đều đề nghị ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trở nên trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu xin ly hôn của anh Uhm là phù hợp với thực tế cuộc sống vợ chồng, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

– Con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Đ.B.H, sinh ngày 03/7/2019, giới tính: nữ hiện đang sống cùng mẹ chị N là bà N.T.H. Bà H cho biết chị N hiện đang sống và làm việc tại Singapore nên không có mặt tại phiên toà khi Tòa án triệu tập.

Xét thấy, cả anh Uhm và chị N đều có đầy đủ điều kiện kinh tế và có nguyện vọng nhận nuôi con chung. Tuy nhiên, do chị N hiện đang ở nước ngoài, không có mặt tại Việt Nam. Trong khi việc nuôi dưỡng con chung phải do cha mẹ trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng. Tại phiên tòa, bà H mẹ chị N cũng đồng ý để anh Uhm nuôi cháu H, bà H đồng ý hỗ trợ anh Uhm trong việc chăm sóc và nuôi dưỡng cháu H. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi cho cháu H cần giao cho anh Uhm chăm sóc là phù hợp. Cấp dưỡng nuôi con: Do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

-Tài sản chung và công nợ: Không có nên không giải quyết.

– Án phí: Anh Uhm phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

Quyết định

Căn cứ các Điều 28, 37, 38, 146, 147, 228, 279, 479 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

– Quan hệ hôn nhân:

Cho anh Uhm được ly hôn chị Đ.T.N

– Con chung:

Giao cháu Đ.B.H, sinh ngày 03/7/2019, giới tính: nữ, cho anh Uhm nuôi dưỡng, chăm sóc kể từ tháng 03/2024 cho đến khi cháu H đủ 18 tuổi. Cấp dưỡng nuôi con chung: Không giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

– Tài sản chung và công nợ:

Không có.

– Án phí:

Anh Uhm phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ 300.000 đồng tại biên lai số 0000418 ngày 03/10/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh.

– Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày và bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định pháp luật.

Ly hôn tranh chấp quyền nuôi con
Liên hệ Luật sư chuyên về ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con, tài sản: 0979.890.858 (Zalo)

Liên hệ Luật sư hỗ trợ thủ tục tại Tòa án: Khách hàng có nhu cầu tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình, hỗ trợ giải quyết nhanh chóng thủ tục tại Tòa án vui lòng liên hệ Luật Hùng Bách qua một trong các phương thức sau:

5/5 - (5 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *